Bệnh bại liệt là gì?
Bệnh bại liệt (Poliomyelitis) là một dạng bệnh nhiễm virus cấp tính lây truyền do virus Polio gây nên. Thường từ phân- miệng, có thể lây lan thành dịch. Bệnh được nhận biết qua biểu hiện của hội chứng liệt mềm cấp.
Virus Polio sau khi vào cơ thể sẽ đến hạch bạch huyết, một số ít virus Polio xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương. Gây tổn thương ở các tế bào sừng trước tủy sống và tế bào thần kinh vận động của vỏ não.
Bệnh bại liệt có thể phòng được bằng cách tiêm chủng vaccine bại liệt. Nhờ đó mà tỷ lệ bệnh bại liệt ở trẻ em giảm đáng kể.
Khả năng tồn tại của virus bại liệt ở môi trường bên ngoài:
- Vi rút bại liệt sống sai ở môi trường bên ngoài, trong phân, chúng sống được vài ba tháng ở nhiệt độ 0-4°C. Trong nước, ở nhiệt độ thường, chúng sống được 2 tuần.
- Vi rút bại liệt chịu đựng khô hanh, bị tiêu diệt ở nhiệt độ 56°C sau 30 phút và bị tiêu diệt bởi thuốc tím (KMnO4).
Một số thông tin về bệnh bại liệt
Ở Việt Nam: trước khi có vắc xin đã xảy ra các dịch lớn vào năm 1957-1959. Tỷ lệ bại liệt năm 1959 là 126,4/100.000 dân. Từ năm 1962 khi Việt Nam chế tạo thành công vắc xin bại liệt sống giảm độc lực Sabin (OPV) thì tỷ lệ mắc và tử vong đã giảm đáng kể cũng như không có các vụ dịch xảy ra.
Sau thống nhất đất nước 1975, áp dụng có hiệu quả Chương trình tiêm chủng mở rộng đã giúp gần 100% trẻ em được uống vắc xin bại liệt. Đến năm 2000 Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố Việt Nam đã thành công trong việc thanh toán bệnh bại liệt trên toàn quốc, nghĩa là không còn một bệnh nhân nào mắc bệnh bại liệt do vi rút bại liệt hoang dại gây nên. Đây là một thành công to lớn của nền y tế nước nhà.
Nguyên nhân gây ra bệnh bại liệt
Virus polio là nguyên nhân gây bệnh. Thuộc chi vi rút đường ruột (Enterovirus), thuộc họ Picornaviridae, có hình khối cầu, không có vỏ, chứa ARN.
Con người là ổ chứa virus bại liệt duy nhất, đặc biệt là trẻ em. Ở những người không có miễn dịch, sau khi từ đường ruột xâm nhập vào cơ thể, virus bại liệt Polio sẽ đến hạch bạch huyết. Một số ít virus sẽ xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương. Gây tổn thương tế bào vận động của vỏ não và tế bào sừng trước tủy sống, gây nên các triệu chứng bệnh.
Thời gian virus ủ bệnh
Khi nhiễm virus bại liệt, người bệnh sẽ có thời gian ủ bệnh từ 7- 14 ngày đối với các trường hợp có dấu hiệu liệt thực thể. Tùy vào trường hợp thời gian ủ bệnh có thể dao động từ 3- 35 ngày. Sau đó là thời kỳ lây truyền với khoảng thời gian chưa xác định. Có thể kéo dài trong thời gian virus vẫn còn tồn tại trong cơ thể và đào thải ra ngoài.
Virus sau khi xâm nhập cơ thể có trong dịch tiết hầu họng sau 36h, trong phân sau 72h. Ở trong phân, virus bại liệt có thể tồn tại lâu đến 3-6 tuần hoặc lâu hơn. 7-10 ngày là thời gian bệnh có thể lây truyền trước khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng.
Phân loại bệnh bại liệt
Bại liệt trong lịch sử đã được chia thành nhiều loại, tùy thuộc chủ yếu vào một phần của cơ thể bị ảnh hưởng. Phân loại này không cứng nhắc, và chồng chéo lên nhau có thể xảy ra trong số các hình thức khác nhau.
Bại liệt cột sống.
Đây là hình thức phổ biến nhất của bệnh bại liệt tấn công các tế bào thần kinh nhất định (tế bào thần kinh vận động) trong tủy sống và có thể gây tê liệt các cơ bắp kiểm soát hơi thở và trong cánh tay và chân. Đôi khi các tế bào thần kinh chỉ bị hư hỏng, trong trường hợp này có thể phục hồi một số mức độ của các chức năng cơ bắp. Nhưng nếu các tế bào thần kinh bị phá hủy hoàn toàn, tê liệt là không thể đảo ngược, mặc dù vẫn giữ được cảm giác.
Bệnh bại liệt hành tủy.
Trong loại nặng của bệnh bại liệt, vi rút ảnh hưởng đến các tế bào thần kinh vận động trong não, nơi mà các trung tâm của các dây thần kinh sọ nằm. Các dây thần kinh có liên quan đến khả năng để xem, nghe, ngửi, nếm và nuốt. Họ cũng ảnh hưởng đến sự chuyển động của cơ bắp trên khuôn mặt và gửi tín hiệu đến tim, ruột và phổi. Hành tủy bệnh bại liệt có thể gây trở ngại với bất kỳ của các chức năng này nhưng đặc biệt có khả năng ảnh hưởng đến khả năng để thở, nói và nuốt và có thể gây tử vong mà không hỗ trợ hô hấp.
Bệnh bại liệt bulbospinal.
Một sự kết hợp của cả hai, hành tủy và bệnh bại liệt cột sống, hình thức này có thể dẫn đến tê liệt chân tay, và cũng có thể ảnh hưởng đến hơi thở, nuốt và chức năng tim.
Bệnh bại liệt có lây không?
Bệnh bại liệt rất dễ lây. Hầu hết trẻ em sống cùng nhà hoặc tiếp xúc với người mang mầm bệnh đều có thể nhiễm virus.
Bại liệt là một bệnh truyền nhiễm, lây lan từ người sang người chủ yếu theo đường phân miệng.
Người mang virus bại liệt đào thải ra virus bại liệt theo phân làm ô nhiễm nguồn nước, thực phẩm. Lây virus truyền vào người khác. Cũng có khi lây qua đường hầu, họng và không lây qua côn trùng trung gian.
Đối tượng có nguy cơ mắc bệnh bại liệt
Có rất nhiều yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh bại liệt ở người, bao gồm:
- Người đi đến vùng có virus bại liệt hoặc đang có dịch bại liệt ở đó.
- Người tiếp xúc với chất thải của người có mang virus bại liệt.
- Người sử dụng nguồn nước ô nhiễm và ăn các loại thực phẩm bẩn.
- Người có các yếu tố làm suy giảm miễn dịch, giảm sức đề kháng như: mắc bệnh suy giảm miễn dịch. Đã bị cắt amidan trước đây, stress hoặc hoạt động cường độ nặng trong thời gian dài.
- Người chưa tiêm chủng (chích ngừa) vắc xin bại liệt.
Người chưa được tiêm phòng vacxin bại liệt, phụ nữ mang thai, người già, trẻ em. Đặc biệt là trẻ nhỏ dưới 5 tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu.
Triệu chứng của bệnh bại liệt
Từ sốt, buồn nôn, táo bón bệnh có thể dẫn đến suy dinh dưỡng, mất nước, viêm phổi, teo cơ, tê liệt, mệt mỏi và kiệt sức, liệt cơ hô hấp rồi tử vong.
Triệu chứng của bệnh bại liệt sẽ khác nhau phụ thuộc vào thể bệnh. Dựa vào biểu hiện lâm sàng, bệnh bại liệt được chia ra thành các thể sau:
- Thể liệt mềm cấp điển hình (chiếm 1%). Các triệu chứng điển hình nhất như: sốt, chán ăn, nhức đầu, buồn nôn, đau cơ các chi, gáy và lưng, dần dần mất vận động dẫn đến liệt không đối xứng. Mức độ liệt tối đa là liệt tủy sống. Liệt hành tủy dẫn đến suy hô hấp và tử vong. Liệt ở chi, không hồi phục làm bệnh nhân khó vận động hoặc mất vận động.
- Thể viêm màng não vô khuẩn: Sốt, nhức đầu, đau cơ, cứng gáy.
- Thể nhẹ: Sốt, khó ngủ, nhức đầu, buồn nôn, nôn, táo bón, có thể phục hồi trong vài ngày.
- Thể ẩn: Không rõ triệu chứng là thể thường gặp, song thể nhẹ có thể biến chuyển sang nặng.
Dù chỉ có 1% người mắc bệnh biểu hiện triệu chứng liệt điển hình. Bệnh bại liệt có thể gây liệt tủy sống hoặc liệt cơ hô hấp dẫn đến tử vong hoặc để lại di chứng tàn tật suốt đời.
Cách điều trị bệnh bại liệt
Bệnh bại liệt là bệnh lây nhiễm do virus nên hiện chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu. Bệnh nhân được điều trị nâng đỡ và điều trị triệu chứng:
- Bất động hoàn toàn.
- Tăng cường và nâng cao thể trạng bằng sinh tố và dịch truyền.
- Hỗ trợ hô hấp nếu có dấu hiệu của liệt tủy.
- Điều trị kháng sinh nếu có bội nhiễm vi khuẩn, cụ thể theo chỉ định của bác sĩ lâm sàng.
- Phục hồi chức năng và khắc phục di chứng.
Nhưng quan trọng hơn hết chính là bệnh nhân phải giữ vững tinh thần cho mình. Lạc quan và kiên trì thì các phương pháp điều trị sẽ mang lại hiệu quả hơn.
Các phương pháp phòng tránh bệnh bại liệt
Tiêm/uống vacxin là biện pháp phòng bệnh chủ động hiệu quả nhất. Có 2 loại vaccine được sử dụng:
- Vacxin sống giảm động lực (OPV: Oral Polio Vaccine)
- Vacxin bất hoạt (IPV: Inactivated Polio Vaccine)
Để chủ động phòng chống bệnh bại liệt, Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế khuyến cáo người dân cần thực hiện tốt các khuyến cáo sau:
- Phòng bệnh chủ động cho trẻ dưới 5 tuổi bằng tiêm vacxin phòng bệnh bại liệt theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
- Người chăm sóc trẻ cần thường xuyên rửa tay với xà phòng. Đặc biệt là khi cho trẻ ăn, sau khi đi vệ sinh.
- Thường xuyên lau sạch các bề mặt, vật dụng xung quanh bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa.
- Đảm bảo an toàn thực phẩm. Sử dụng nguồn nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh. Không phóng uế ra môi trường. Phân của trẻ em cũng phải được thu gom và đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh.
- Khi trẻ có dấu hiệu sốt, buồn nôn, cứng gáy, đau chi và cơ bắp hoặc liệt mềm cấp đưa trẻ đến ngay các cơ sở y tế gần nhất để được khám, tư vấn và điều trị kịp thời.
Trên đây là những thông tin cơ bản của bệnh bại liệt. Medplus hi vọng đã giúp cho bạn đọc hiểu thêm về bệnh lý này. Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo. Không thể bằng lời khuyên của bác sĩ. Nếu bạn hoặc người thân có dấu hiệu bệnh, hãy đến ngay phòng khám gần nhất để được tư vấn và xử lý kịp thời bạn nhé.
Các bài viết liên quan:
Nguồn tham khảo: Vietnam Vaccine JSC, Tiêm chủng mở rộng , Vinmec