Các bệnh tự miễn là một trường hợp nhận dạng nhầm lẫn trong đó hệ miễn dịch của cơ thể tấn công chính nó. Có hơn 100 bệnh tự miễn khác nhau, một số bệnh liên quan đến một cơ quan đơn lẻ (ví dụ như viêm tuyến giáp Hashimoto) và những bệnh khác tấn công gần như bất kỳ cơ quan hoặc mô nào (ví dụ như lupus).
Các bệnh tự miễn có thể ảnh hưởng đến một cơ quan hoặc nhiều cơ quan. Mỗi bệnh được đặc trưng bởi các kháng thể duy nhất phát hiện và nhắm mục tiêu các protein cụ thể trên tế bào được gọi là kháng nguyên. Một số kháng nguyên này cư trú trên một cơ quan (gây ra bệnh tự miễn đặc hiệu cho cơ quan), trong khi những kháng nguyên khác tồn tại trên nhiều cơ quan (gây ra bệnh tự miễn toàn thân hoặc tổng quát).
1. Các bệnh tự miễn dịch đặc hiệu cho cơ quan
Một số bệnh tự miễn dịch cơ quan cụ thể phổ biến bao gồm:
1.1 Bệnh tuyến giáp tự miễn dịch
Các tự kháng thể có thể dẫn đến phá hủy mô tuyến giáp và suy giáp, như viêm tuyến giáp Hashimoto, hoặc kích thích mô tuyến giáp và cường giáp, như bệnh Graves. Với cả hai tình trạng này, các triệu chứng có thể phát triển nhanh chóng hoặc xảy ra chậm theo thời gian. Bệnh tuyến giáp tự miễn rất phổ biến và được cho là rất ít được chẩn đoán.
Suy giáp có thể gây ra các triệu chứng mệt mỏi, tăng cân, táo bón và rụng tóc và tình trạng này được điều trị bằng thuốc thay thế hormone tuyến giáp suốt đời.
Ngược lại, cường giáp thường gây căng thẳng, lo lắng, đổ mồ hôi và không dung nạp nhiệt, và nó có thể được điều trị bằng thuốc kháng giáp, phẫu thuật hoặc liệu pháp iốt phóng xạ để phá hủy tuyến.
1.2 Bệnh tiểu đường loại 1
Bệnh tiểu đường loại 1 thường phát sinh trong thời thơ ấu hoặc thanh niên, xảy ra khi các tự kháng thể phá hủy các tế bào beta trong tuyến tụy chịu trách nhiệm sản xuất insulin. Các triệu chứng có thể bao gồm khát nước, đi tiểu nhiều và khi nghiêm trọng có thể hôn mê do tiểu đường.
Bệnh tiểu đường loại 1 được điều trị bằng cách thay thế insulin suốt đời và cần theo dõi cẩn thận để tránh các biến chứng như suy thận, bệnh võng mạc và bệnh tim.
1.3 Bệnh vẩy nến
Bệnh vẩy nến xảy ra khi hệ miễn dịch gửi sai tín hiệu đến các tế bào da để phát triển quá nhanh. Có một số dạng bệnh vẩy nến, phổ biến nhất là bệnh vẩy nến thể mảng. Bệnh vẩy nến thể mảng được đặc trưng bởi các mảng đỏ nổi lên (thường ngứa), xuất hiện thường xuyên nhất trên đầu gối, lưng dưới, da đầu và khuỷu tay.
Các lựa chọn điều trị cho bệnh vẩy nến tùy thuộc vào loại và mức độ nghiêm trọng. Đối với những người bị bệnh vẩy nến, điều quan trọng là phải tầm soát một tình trạng tự miễn dịch liên quan, được gọi là viêm khớp vẩy nến .
1.4 Bệnh đa xơ cứng
Bệnh đa xơ cứng là một tình trạng trong đó các tự kháng thể tấn công vỏ bọc mỡ (myelin) bao bọc các dây thần kinh. Bệnh có thể có nhiều triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào khu vực cụ thể của hệ thống thần kinh bị ảnh hưởng nhưng có thể bao gồm các vấn đề về thị lực, rối loạn cảm giác như tê và ngứa ran, các vấn đề về bàng quang, suy nhược, mất phối hợp, run và nhiều hơn nữa.
1.5 Hội chứng Guillain Barre
Hội chứng Guillain-Barré (GBS) là tình trạng các tự kháng thể tấn công các tế bào hỗ trợ dẫn truyền dây thần kinh. Nó thường xảy ra sau khi bị nhiễm vi-rút (và hiếm khi, sau khi tiêm phòng cúm), và người ta cho rằng các bộ phận của sinh vật lây nhiễm giống với các bộ phận của hệ thần kinh.
GBS thường bắt đầu với tình trạng yếu và thay đổi cảm giác ở bàn chân và bàn tay. Khi tình trạng tăng dần lên cơ thể, nó có thể trở nên nguy hiểm đến tính mạng nếu không được chăm sóc y tế kịp thời. (Liệt cơ hoành cần hỗ trợ hô hấp bằng máy thở.)
2. Bệnh tự miễn hệ thống
Các bệnh tự miễn hệ thống có thể gây ra một số vấn đề khác nhau vì tác động của chúng được cảm nhận khắp cơ thể. Những ví dụ bao gồm:
2.1 Bệnh lupus ban đỏ hệ thống
Bệnh lupus ban đỏ hệ thống là một bệnh tự miễn dịch ảnh hưởng đến nhiều cơ quan. Các triệu chứng của bệnh lupus có thể bao gồm đau khớp, phát ban trên da, các vấn đề về thận, viêm phổi hoặc tim, thiếu máu, tăng đông máu (huyết khối), các vấn đề về trí nhớ, v.v.
Điều trị bao gồm các biện pháp lối sống (chẳng hạn như chống nắng và ngừng hút thuốc) và các loại thuốc như corticosteroid, thuốc chống sốt rét và thuốc ức chế miễn dịch.
2.2 Viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp (RA) được đặc trưng bởi đau, sưng và nếu không điều trị, cuối cùng sẽ phá hủy các khớp. Không giống như viêm xương khớp, các triệu chứng của RA nghiêm trọng hơn.
Nếu không điều trị sớm và tích cực, biến dạng khớp thường xảy ra. Các khớp thường bị ảnh hưởng đối xứng, có khuynh hướng đối với các khớp nhỏ của bàn tay và bàn chân. Ngoài viêm khớp, những người bị RA có thể phát triển các cục u bên dưới da, tràn dịch màng phổi, viêm màng ngoài tim, v.v.
2.3 Bệnh viêm ruột
Bệnh viêm ruột (IBD), bao gồm bệnh Crohn và viêm loét đại tràng đề cập đến tình trạng viêm mãn tính của đường tiêu hóa. Trong khi bệnh Crohn có thể gây viêm từ miệng đến hậu môn, viêm trong viêm loét đại tràng chỉ ảnh hưởng đến ruột kết và trực tràng. Các triệu chứng có thể bao gồm tiêu chảy, đau bụng, phân có máu, sụt cân và mệt mỏi.
Điều trị thường bao gồm kết hợp thuốc và phẫu thuật, cũng như theo dõi cẩn thận vì cả hai tình trạng trên đều có liên quan đến việc tăng nguy cơ phát triển ung thư ruột kết .
2.4 Hội chứng Sjogren
Trong hội chứng Sjögren (SJS), các tự kháng thể tấn công các tuyến sản xuất nước mắt và nước bọt. Điều này dẫn đến khô mắt, khô miệng và các hậu quả liên quan như sâu răng, mất vị giác, v.v. Đau khớp và các triệu chứng khác cũng có thể xảy ra.
Đối với khoảng một nửa số người bị SJS, hội chứng xảy ra đơn lẻ, trong khi nó có liên quan đến một tình trạng tự miễn dịch khác như lupus, viêm khớp dạng thấp hoặc xơ cứng bì ở những người khác.
2.5 Hội chứng kháng phospholipid
Hội chứng kháng phospholipid là một tình trạng tự miễn dịch phổ biến liên quan đến tự kháng thể chống lại một số protein trong máu, dẫn đến đông máu bất thường. Trước tiên, nó thường được ghi nhận là nguyên nhân ở những phụ nữ thường xuyên bị sẩy thai hoặc sinh non, hoặc khi xuất hiện các cục máu đông và bầm tím mà không rõ nguyên nhân.
Sự hình thành các cục máu đông cũng có thể dẫn đến các cơn đau tim (khi chúng xảy ra trong các mạch máu ở tim) hoặc đột quỵ (khi cục máu đông xảy ra trong não).