Các triệu chứng của bệnh viêm gan có thể gây nhầm lẫn, từ các triệu chứng giống cúm nhẹ, tồn tại trong thời gian ngắn (ví dụ: sốt và mệt mỏi) đến các triệu chứng cổ điển hơn, chẳng hạn như vàng da – hoặc thậm chí không có triệu chứng nào. Tổn thương gan nghiêm trọng có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng và thậm chí đe dọa tính mạng như xơ gan và ung thư gan. Cùng Medplus tìm hiểu về các triệu chứng của căn bệnh này qua bài viết dưới đây nhé.
Ngoài ra, bạn có thể tham khảo các loại bệnh khác:
1. Triệu chứng của bệnh viêm gan
Các triệu chứng của ba loại viêm gan khác nhau rất ít. Trong trường hợp viêm gan siêu vi cấp tính, nếu các triệu chứng xảy ra, chúng sẽ bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn tiền nhiễm trùng, khi vi rút đã bắt đầu nhân lên mạnh mẽ và lây lan đến các tế bào của gan (gọi là tế bào gan).
Để bảo vệ chống lại vi rút, hệ thống miễn dịch sẽ tạo ra phản ứng viêm có thể gây ra các triệu chứng tương tự như triệu chứng của bệnh cúm theo mùa, kèm theo các dấu hiệu gợi ý nhiễm trùng đường tiêu hóa hoặc gan, bao gồm:
- Mệt mỏi
- Đau cơ
- Đau khớp
- Sốt
- Buồn nôn
- Nôn mửa
- Bệnh tiêu chảy
- Ăn mất ngon
- Đau ở phần trên bên phải của bụng (thường nhẹ, nhưng không đổi)
- Nổi mề đay đỏ (thường thấy nhất ở bệnh viêm gan B)
- Thay đổi cách nếm hoặc ngửi (những người hút thuốc thường sẽ đột ngột chán ngấy thuốc lá)
Trong vòng vài ngày kể từ khi có những dấu hiệu ban đầu này, nhiễm trùng sẽ kích hoạt sự tích tụ của bilirubin, một sắc tố màu vàng cam được tạo ra khi gan phá vỡ các tế bào hồng cầu cũ. Hợp chất này có thể tích tụ nhanh chóng trong cơ thể, gây ra các dấu hiệu nhận biết của bệnh viêm gan:
- Vàng da (vàng da và lòng trắng của mắt)
- Choluria (nước tiểu sẫm màu)
- Phân màu nhạt hoặc màu đất sét
Các triệu chứng của viêm gan vi rút cấp tính hiếm khi trở nên nghiêm trọng. Tuy nhiên, mệt mỏi có thể kéo dài hàng tuần và trong một số trường hợp, thậm chí hàng tháng. Trong hầu hết các trường hợp, các triệu chứng cấp tính hết trong khoảng bốn đến tám tuần. Một ngoại lệ là viêm gan D, trong đó tổn thương gan cấp tính phổ biến hơn.
Vàng da thường là triệu chứng đầu tiên của các dạng viêm gan không do vi rút, mặc dù đối với viêm gan do vi rút, nhiều người gặp các triệu chứng trong giai đoạn đầu của tổn thương gan ít rõ ràng hơn và có thể dễ bị nhầm với bệnh nhiễm trùng do vườn.
2. Các biến chứng
Trong trường hợp viêm gan do vi rút, khi vi rút không tự hết mà thay vào đó tiếp tục nhân lên, nhiễm trùng được cho là mãn tính. Tùy thuộc vào loại vi rút viêm gan, nhiễm trùng mãn tính có thể tồn tại trong nhiều năm trước khi các dấu hiệu bệnh xuất hiện.
Đối với cả viêm gan siêu vi và không siêu vi, vào thời điểm bệnh biểu hiện rõ ràng, các triệu chứng thực chất là những biến chứng của tổn thương gan.
Xơ gan
Khi các tế bào gan bị thương, phản ứng viêm sẽ kích thích sản xuất collagen và các chất khác. Những thứ này bắt đầu tích tụ nhanh hơn cơ thể có thể phá vỡ chúng. Theo thời gian, quá trình này gây ra sự tích tụ dần dần của các mô sẹo, được gọi là xơ hóa.
Bệnh xơ hóa có xu hướng tiến triển nhanh hơn ở nam giới so với phụ nữ, cũng như ở những người trên 50 tuổi hoặc những người uống rượu nhiều hoặc béo phì. Trong một số trường hợp, nó có thể duy trì ổn định hoặc thậm chí thoái lui theo thời gian.
Xơ hóa có thể dẫn đến một biến chứng được gọi là xơ gan, lan rộng đến mức hạn chế cung cấp máu cho gan và phá vỡ chức năng bình thường. Các triệu chứng xơ gan có thể khác nhau, tùy thuộc vào giai đoạn tiến triển.
Có hai phân loại xơ gan, còn bù và mất bù.
Xơ gan còn bù, trong đó gan bị tổn thương tối thiểu đến trung bình, có xu hướng ít, nếu có, các triệu chứng. Dấu hiệu có thể xảy ra bao gồm:
- Tình trạng khó chịu hoặc mệt mỏi dai dẳng
- Khó chịu ở phần trên bên phải của bụng
- Buồn nôn
- Đau khớp hoặc cơ
- Cảm giác ngứa ran hoặc bỏng rát bất thường (dị cảm)
- Cảm giác “kim châm” khó chịu (bệnh thần kinh ngoại biên)
- Khô mắt kèm theo khô miệng (hội chứng sicca)
- Gân nhện, chủ yếu trên thân và mặt
- Da ngứa (ngứa)
- Đỏ trên lòng bàn tay (ban đỏ lòng bàn tay)
- Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu bất thường (chảy máu tĩnh mạch)
- Sự tích tụ chất lỏng ở mắt cá chân và bàn chân (phù nề)
- Khả năng tập trung và trí nhớ kém
- Ăn mất ngon
- Giảm cân
- Thu nhỏ tinh hoàn (teo tinh hoàn)
- Rối loạn cương dương hoặc mất ham muốn tình dục
- Không dung nạp rượu
Xơ gan mất bù được chẩn đoán nếu tổn thương lan rộng và gan không còn hoạt động. Các triệu chứng là kết quả của suy gan và bao gồm:
- Vàng da
- Phân có màu đen hoặc có máu
- Tích tụ chất lỏng trong khoang bụng, gây sưng và chướng bụng (cổ trướng)
- Một mùi hơi thở đặc biệt “ngọt như mốc” đến “trứng thối”
- Cực tím hoặc chảy máu
- Lượng nước tiểu giảm bất thường
- Thay đổi tính cách, nhầm lẫn hoặc run
- Tăng buồn ngủ
- Cơ bắp hao mòn
- Đổi màu trắng hoặc “đốm sữa” trên móng tay (bạch sản)
- Nôn ra máu
Xơ gan mất bù được xếp vào nhóm bệnh gan giai đoạn cuối. Ghép gan được coi là lựa chọn khả thi duy nhất để điều trị.
Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC)
Đây là một loại ung thư gan phát triển hầu như chỉ liên quan đến xơ gan ở bệnh nhân viêm gan B hoặc viêm gan C. Các triệu chứng của HCC tương tự như các triệu chứng của xơ gan mất bù:
- Mệt mỏi dai dẳng
- Vàng da
- Tích tụ chất lỏng trong khoang bụng (cổ trướng)
- Bầm tím và chảy máu bất thường
- Giảm cân không chủ ý, cực kỳ nghiêm trọng
- Ăn mất ngon
- Cảm thấy no sau khi chỉ ăn một lượng nhỏ
- Mê sảng, lú lẫn hoặc cử động cơ thô “giật”
Giống như xơ gan mất bù, HCC được coi là một bệnh gan giai đoạn cuối.
Viêm cầu thận
Rối loạn thận này thường liên quan đến nhiễm trùng viêm gan B hoặc viêm gan C mãn tính không được điều trị.
Cryoglobulinemia
Hầu hết thường liên quan đến nhiễm trùng viêm gan B hoặc viêm gan C mãn tính, căn bệnh hiếm gặp này là do một nhóm protein bất thường chặn các mạch máu nhỏ, dẫn đến các vấn đề lưu thông.
Porphyria Cutanea Tarda
Biến chứng hiếm gặp này của bệnh viêm gan C mãn tính, trong đó cơ thể gặp khó khăn trong quá trình xử lý hóa chất gọi là porphyrin, dẫn đến tay và mặt bị phồng rộp.
Bệnh não gan
Bệnh não gan (HE) là tình trạng viêm não có thể xảy ra khi gan không thể loại bỏ các chất độc ra khỏi máu, cho phép chúng di chuyển đến não. Còn được gọi là bệnh não hệ thống, HE ảnh hưởng đến cả hoạt động thể chất và tinh thần. Các triệu chứng bao gồm:
- Run hoặc giật chân tay
- Vỗ cánh tay khi duỗi thẳng
- Thời gian phản ứng chậm lại
- Một mùi thơm cho hơi thở
- Thời gian phản ứng chậm lại
- Nói lắp
- Hành vi không phù hợp với xã hội
- Thay đổi tính cách
- Sự hoang mang
- Mất trí nhớ
- Giảm sự tỉnh táo
- Định hướng về thời gian, địa điểm hoặc ngày
- Khó lấy nét
Tăng áp lực tĩnh mạch
Tăng áp lực tĩnh mạch, một biến chứng của viêm gan do rượu, là một loại huyết áp cao ảnh hưởng đến các tĩnh mạch cửa dẫn từ ruột đến gan, ngăn chặn sự trở lại của máu từ hệ thống tiêu hóa. Khi áp lực tăng lên, có thể dẫn đến sưng và chảy máu các mô và cơ quan nội tạng khác nhau đe dọa tính mạng.
Đồng nhiễm
Viêm gan có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch, khiến hệ thống này kém khả năng chống lại các bệnh nhiễm trùng khác. Ví dụ, theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), cả viêm gan B và viêm gan C thường cùng tồn tại với nhiễm vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
3. Khi nào cần gặp bác sĩ
Nếu bạn phát triển bất kỳ triệu chứng nào của bệnh viêm gan mãn tính, tổn thương gan hoặc ung thư gan, hãy đến gặp nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn. Chỉ cần xét nghiệm máu để phát hiện sự hiện diện của vi rút viêm gan trong cơ thể bạn (hoặc các kháng thể cho biết hệ thống miễn dịch của bạn đang cố gắng chống lại loại vi rút đó).
Xét nghiệm máu cũng có thể xác định bạn bị nhiễm loại vi rút viêm gan nào, từ đó xác định phương pháp điều trị của bạn (thường là thuốc kháng vi rút có thể không loại bỏ vi rút khỏi cơ thể bạn, nhưng có thể ngăn nó tái tạo).
4. Kết luận
Các triệu chứng của các dạng viêm gan vi rút khác nhau – cũng như các triệu chứng của viêm gan không do vi rút – đều giống nhau mặc dù có những nguyên nhân khác nhau. Hơn nữa, các triệu chứng thường không rõ ràng cho đến khi tổn thương gan đang tiến triển tốt. Bằng cách xác định các hành vi hoặc đặc điểm khiến bạn có nguy cơ cao hơn và có tiền sử bệnh tốt, bác sĩ thường có thể xác định rằng viêm gan có thể là nguyên nhân gây ra các triệu chứng của bệnh nhân. Từ đó, xét nghiệm có thể được thực hiện để xác định chẩn đoán.