Nếu bạn bị viêm gan do vi rút , bạn có thể quen với thực tế là có nhiều cách khác nhau mà vi rút có thể lây lan. Vậy điều này có nghĩa là gì nếu bạn có con? Bạn sẽ có thể cho con bú? Những biện pháp phòng ngừa nào cần được thực hiện với các dạng khác nhau của bệnh viêm gan? Hãy cùng Medplus tham khảo qua bài viết dưới đây nhé.
Ngoài ra, bạn có thể tham khảo các loại bệnh khác:
1. Tổng quan về bị viêm gan có lây sang đường con bú không?
Mối quan tâm chung của các bà mẹ bị viêm gan vi rút là nguy cơ lây truyền sang con của họ khi cho con bú. Mặc dù phần lớn các bằng chứng khoa học chỉ ra rằng việc thực hành là hoàn toàn an toàn, nhưng cần phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa trong một số trường hợp nhất định.
Trong số những người ủng hộ có Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP), tổ chức tích cực ủng hộ việc nuôi con bằng sữa mẹ đối với các bà mẹ bị viêm gan và coi đây là phương tiện tốt nhất có thể cho sự phát triển và sức khỏe tốt của trẻ sơ sinh.
Các kết luận phần lớn dựa trên nghiên cứu dịch tễ học về tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con của bệnh viêm gan A, B, C, D và E ở Mỹ và các nước phát triển khác.
Viêm gan A
Vi rút viêm gan A (HAV) lây lan chủ yếu qua đường phân-miệng, bao gồm ăn phải thức ăn hoặc nước bị ô nhiễm, quan hệ tình dục bằng miệng-hậu môn và các trường hợp mắc bệnh khác mà phân có thể truyền từ người sang người. Do đó, vệ sinh tốt, bao gồm rửa tay kỹ lưỡng và nhất quán, được coi là điều cần thiết để ngăn chặn sự lây lan của HAV.
Tiếp xúc với các chất dịch cơ thể khác không được coi là đường lây truyền. Không có bằng chứng nào về HAV đã từng được phân lập trong sữa mẹ, điều này giúp cho trẻ bú mẹ hoàn toàn an toàn.
Nếu người mẹ đã tiếp xúc với HAV, cô ấy có thể được cung cấp globulin miễn dịch (IG) , một loại kháng thể tinh khiết có thể bảo vệ cô ấy khỏi phát triển bệnh. Đối với những bà mẹ đã bị nhiễm bệnh, một số bác sĩ khuyên nên tiêm globulin miễn dịch viêm gan A cho trẻ sơ sinh nếu bà mẹ có triệu chứng.
Viêm gan E
Virus viêm gan E (HEV) tương tự như bệnh viêm gan A về cách thức lây lan của nó. Mặc dù nó cực kỳ không phổ biến ở Hoa Kỳ, nó thường được nhìn thấy ở các khu vực của châu Á, châu Phi và Trung Mỹ.
Viêm gan E có thể là một thách thức ở phụ nữ mang thai vì 30% phụ nữ bị nhiễm trùng trong thời kỳ mang thai có khả năng phát triển thành viêm gan tối cấp gây tử vong (suy gan cấp tính). Tuy nhiên, cũng như với bệnh viêm gan A, việc cho con bú vẫn được coi là an toàn đối với các bà mẹ bị nhiễm HEV.
Bệnh viêm gan B
Virus viêm gan B (HBV) được truyền từ người này sang người khác qua đường máu bị nhiễm bệnh, phổ biến nhất là do dùng chung kim tiêm bị nhiễm bệnh hoặc quan hệ tình dục với người bị nhiễm bệnh.
Vi-rút có thể được tìm thấy trong nhiều chất dịch cơ thể nhưng chỉ lây nhiễm khi có hàm lượng cao trong máu, tinh dịch hoặc nước bọt.
Không giống như viêm gan A và E, HBV có thể lây từ mẹ sang con trong khi sinh. Con đường lây truyền này không phổ biến ở Châu Âu và Bắc Mỹ nhưng được biết là xảy ra thường xuyên hơn ở các nước đang phát triển với nguồn lực chăm sóc sức khỏe kém.
Tuy nhiên, sự lây truyền HBV không xảy ra qua sữa mẹ, nên nó hoàn toàn an toàn cho trẻ sơ sinh trừ khi có nguy cơ tiếp xúc với máu nhiễm HBV. Do đó, những bà mẹ có núm vú bị nứt hoặc chảy máu nên cân nhắc việc tránh cho con bú sữa mẹ và thay thế bằng sữa công thức cho đến khi núm vú lành lại.
Các bà mẹ nên cân nhắc việc tiêm phòng vắc-xin viêm gan B cho trẻ trong khi đảm bảo rằng trẻ sơ sinh được tiêm globulin miễn dịch viêm gan B trong vòng 12 giờ sau khi sinh . Thuốc chủng ngừa viêm gan B yêu cầu ba liều: một liều ngay sau khi sinh, mũi thứ hai trong một đến hai tháng, và mũi thứ ba trong sáu đến mười tám tháng.
Viêm gan siêu vi D
Virus viêm gan D (HDV) chỉ lây truyền khi có HVB và lây truyền qua các đường giống nhau (máu, tinh dịch, nước bọt). Lây truyền từ mẹ sang con là không phổ biến. Như với HBV, các bà mẹ bị HDV vẫn có thể cho con bú sữa mẹ. Tuy nhiên, việc chủng ngừa HBV được khuyến cáo ngay từ khi mới sinh để giảm nguy cơ nhiễm HDV.
Viêm gan C
Vi rút viêm gan C (HCV) chủ yếu lây lan qua tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh, giống như viêm gan B. Tuy nhiên, không giống như HBV, phơi nhiễm qua đường tình dục với HCV được coi là không phổ biến ngoại trừ một số nhóm nguy cơ cao .
Con đường lây truyền HCV chính là tiêm chích ma tuý, đặc biệt là sử dụng chung kim tiêm và / hoặc tiêm chích ma tuý.
Khoảng 3,6% phụ nữ mang thai được ước tính có HCV. Sự lây truyền chủ yếu xảy ra trong tử cung (khi mẹ đang mang thai và trước khi sinh) và có nguy cơ khoảng dưới một phần trăm, tùy thuộc vào tải lượng vi-rút của người mẹ và các yếu tố nguy cơ khác.
Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy việc lây truyền HCV xảy ra do việc cho con bú sữa mẹ, trẻ bú bình và trẻ bú sữa mẹ đều có nguy cơ lây nhiễm như nhau. Vì lý do này, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh , Đại hội Bác sĩ Sản phụ khoa Hoa Kỳ và Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ đều ủng hộ việc cho các bà mẹ nhiễm HCV cho con bú. Tuy nhiên, cũng như đối với bệnh viêm gan B, nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa nếu người mẹ bị nứt hoặc chảy máu núm vú, để chúng có thời gian lành lại trước khi cho con bú.
Một chống chỉ định cho con bú là với các bà mẹ đồng nhiễm HIV và HCV. Hiện nay, ở Mỹ, việc cho con bú không được khuyến khích đối với các bà mẹ nhiễm HIV vì có khả năng lây truyền, chủ yếu ở phụ nữ không được điều trị và phụ nữ có tải lượng vi rút HIV cao.
2. Khi nào Mẹ Tuyệt Đối Không Nên Cho Con bú?
Khi bạn đọc qua thông tin trên, bạn có thể lo lắng về việc cho con bú và nguy cơ của em bé của bạn. Nếu vậy, có thể hữu ích để hiểu khi nào thì không nên cho con bú theo CDC, vì thực tế có rất ít điều kiện mà điều này là đúng. Cho con bú sữa mẹ không được khuyến khích cho:
- Một trẻ sơ sinh được chẩn đoán mắc chứng rối loạn galactosemia hiếm gặp (các xét nghiệm sàng lọc sơ sinh để kiểm tra chứng rối loạn này)
- Người mẹ bị nhiễm vi rút HIV, vi rút bạch huyết tế bào T ở người loại I hoặc loại II hoặc đang dùng thuốc kháng vi rút
- Những bà mẹ mắc bệnh lao chưa được điều trị, đang hoạt động
- Những bà mẹ phụ thuộc vào ma túy bất hợp pháp
- Các bà mẹ đang dùng một số loại thuốc hóa trị ung thư (chẳng hạn như chất chống chuyển hóa) hoặc xạ trị
3. Kết luận
Nhìn chung, sự nhất trí của một số tổ chức quốc gia là lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ hơn hẳn nguy cơ khi người mẹ bị viêm gan vi rút.
Trường hợp ngoại lệ có thể xảy ra nếu người mẹ bị viêm gan B hoặc viêm gan C có núm vú bị nứt hoặc chảy máu. Tuy nhiên, nếu điều này xảy ra, việc cho con bú chỉ cần ngừng cho đến khi núm vú của mẹ lành lại và sau đó có thể tiếp tục lại.
Nguồn tham khảo: