Mướp sát là một cây thuốc với thành phần hóa học chủ yếu là glycosid tim, có độc tính cao. Do đó, không được tự ý sử dụng cây thuốc này để trị bệnh. Những nghiên cứu gần đây hứa hẹn tiềm năng điều trị ung thư của nhiều loại hoạt chất chiết xuất từ Mướp sát.
Thông Tin Dược Liệu
- Tên thường gọi: Mướp sát còn gọi là Sơn dương tử, Hải qua tử, da krapur.
- Tên khoa học Cerbera odollam Gaertn.
- Họ khoa học: Thuộc họ Trúc đào Apocynaceae.
1. Đặc điểm dược liệu
Mướp sát là một loài cây nhỡ hay to, chiều cao trung bình khoảng 4-6m. Dược liệu có cành thô, to, vỏ xù xì, bề mặt cành dày, có gỗ mềm, toàn thân cây có lớp nhựa mủ trắng. Lá cây mọc so le và thường hay tập trung ở đầu cành, lá cây có hình thuôn dài, phía đầu nhọn và thuôn về phía cuống, mặt trên lá bóng, mỗi phiến lá dài khoảng 10-15cm, bề rộng trung bình 2 – 4cm.
Cây thuộc họ Trúc đào, đây là loài có hoa thơm. Hoa trắng, mùi hương dễ chịu và thường mọc thành xim tận cùng với rất nhiều nhánh. Sau khi cây rụng hoa là mùa ra quả. Quả hạch, màu đỏ và to bằng quả trứng gà hoặc lớn hơn. Khi quả cây còn tươi sẽ có phần thịt dày, xốp, thịt quả có màu xám nhạt, hoặc nâu nhạt hay hơi hồng.
Thông thường người ta thường thu hoạch quả cây để làm thuốc. Trong hạch có hai hình bán cầu, mặt ngoài khum tròn, mặt trong phẳng và hơi lõm, phần vỏ hạt cứng, hai lá mầm mọc không đều, ôm vào nhau. Mùa hoa kéo dài từ tháng 2 đến tháng 10 và mùa quả kéo dài từ tháng 11 đến tháng 1.
2. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây là giống cây chịu lạnh, cây thường mọc hoang tại những vùng ẩm thấp và có khí hậu khắc nghiệt. Phổ biến nhất là tại vùng ven biển miền Trung, miền núi phía Nam và Campuchia. Cây ít gặp ở miền Bắc và Lào. Ngoài ra thì cây phân bố rất rộng rãi tại các vùng ôn đới ở Trung Quốc (Hải Nam, Đài Loan), Ấn Độ, châu Úc.
Sau khi thu hái quả chín về, người ra đãi bỏ thịt lấy hạt ép lấy tinh dầu trong hạt. Còn lại phần nhân dùng làm nguyên liệu chế thuốc chữa bệnh tim. Tuy nhiên nhu cầu sử dụng không nhiều, chủ yếu dược liệu được dùng điều chế thuốc chữa bệnh.
3. Bộ phận dùng
Cây mướp sát chỉ sử dụng được hạt, thu hái khi quả chín. Sau đó hạt được đem đi phơi khô, đập vỡ hạt lấy nhân ép dầu. Hạt rất độc và không được dùng khi chưa qua điều chế.
Công dụng và Liều dùng
1. Thành phần hoá học
Thành phần hóa học của cây mướp sát rất dồi dào. Nhiều nhất có trong hạt cây mướp sát với những thành phần chính chứa glucosid như: Cerberin, cerberosid, neriifolin, thevetin. Bao phủ cây là một chất nhựa màu trắng, khi gặp axit sẽ cho màu xanh lục. Nhựa của cây mướp sát có 22% cao su kết hợp với những chất khác nhưng thành phần không chứa xecberin (cerberin).
Hạt cây mướp sát có chứa 53-57% tinh dầu. Dầu hạt cây có màu trong, không khô, khi đốt sẽ cháy sáng và có mùi gần như mùi hạt dẻ. Trong thành phần của hạt cây có glucoit – một tinh thể không màu gọi là xecberin
Ngoài xecberin, Schen và Steldt (1942), hạt của cây mướp sát còn chứa gốc glucozit nữa gọi là xecberozit (ccrberosid). Những chất này đều có những giá trị nhất định trong y học và được nghiên cứu điều chế thuốc điều trị bệnh tim mạch và huyết áp.
2. Tác dụng dược lý
Cây có nhựa mủ. Một số nghiên cứu cho rằng nhựa mủ của cây hơi độc, nhưng một số nghiên cứu khác lại cho là không độc. Ngoài ra nhựa mủ có tác dụng tẩy mạnh. Hạt của cây rất độc do chất glucozit xecberìn. Trong đó Xecberin với liều vừa có tác dụng bổ tim, liều quá độc sẽ gây suy tim. Dầu hạt cây bản tính không độc, nhưng do những tạp chất kèm theo nên độc.
3. Công dụng của dược liệu
Hiện vẫn chưa có nhiều nghiên cứu ghi nhận về công dụng của cây mướp sát. Loài cây này ít được dùng làm thuốc ở Việt Nam. Thường người ta chỉ dùng để đầu độc và được liệt kê vào nhóm gây độc có thể gây tử vong. Nhưng ở các nước khác như Trung Quốc hay Ấn Độ, người ta dùng nhiều bộ phận của cây làm thuốc
Một số thông tin cho rằng cây có tác dụng chữa ghẻ, ngứa, trừ chấy, chữa bệnh suy tim. Ngoài ra còn dùng để làm thuốc tẩy, làm dầu thắp đèn. Cây mướp sát được sử dụng duốc cá tại Philipin và Tan Calêđôni (dùng dầu hạt). Phần vỏ của cây mướp sát dùng làm thuốc tẩy. Có nơi dùng lá. Người dân Miến Điện dùng dầu làm dầu thắp đèn, bôi lên da chữa ngứa hoặc bôi lên tóc trừ chấy.
4. Cách dùng
Cây mướp sát sau khi thu hái lấy hạt, đợi quả chín rồi đem đi hơi khô; đập vỡ hạt lấy nhân ép dầu.
Theo kinh nghiệm dân gian, dầu hạt bôi lên chỗ ngứa hoặc bôi lên tóc trừ chấy. Nhựa mủ gây nôn và tẩy. Nhựa dùng chữa táo bón, chữa bệnh ngoài da, vết cắn, vết đứt và các vết thương khác. Vỏ thân và lá cũng dùng gây nôn, tẩy xổ.
Điều trị Ung Thư bằng Dược liệu
Trong những năm gần đây, đã có rất nhiều nghiên cứu về các hoạt chất chiết xuất từ Mướp sát trong chống ung thư. Có thể điểm qua như:
- Các chất phân lập từ hạt Mướp sát là Neriifolin, 2′-epi-2′-O-Acetylthevetin B, β-d-Glucosyl-(1–4)-α-l-thevetosides cho thấy tác dụng chống ung thư mạnh mẽ trong ung thư biểu mô tế bào gan ở người.
- Tanghinigenin chiết xuất từ hạt tác động lên các tế bào bệnh bạch cầu nguyên bào nuôi ở người, chống ung thư máu.
- Axit cerberic A và B phân lập từ vỏ, quả Mướp sát tác động chống các tế bào ung thư vú, ung thư cổ tử cung.
- Dehydrocerberin, deacetyltanghinin và tanghinin chiết xuất từ hạt thể hiện các hoạt động gây độc tế bào chống lại ung thư biểu mô miệng, ung thư vú và ung thư phổi tế bào nhỏ.
- Các chất phân lập từ rễ cây Mướp sát cho thấy tác dụng chống tăng sinh ở tế bào ung thư đại tràng ở người.
- Chiết xuất của Mướp sát ức chế hiệu quả khả năng tồn tại của các dòng tế bào u nguyên bào thần kinh đệm.
Ngoài ra, chiết xuất Mướp sát bằng methanol có tác dụng chống viêm, tác động tích cực lên viêm gan, viêm phúc mạc và viêm dạ dày.
Lưu Ý khi sử dụng Dược Liệu để trị bệnh
Mặc dù cây mướp sát có thành phần hóa học giá trị về mặt y học nhưng đây lại là loại cây cực độc trong tự nhiên. Người dân không nên sử dụng mướp sát trong bất kỳ mục đích chữa bệnh nào. Mướp sát là một trong những nguyên nhân gây ngộ độc phổ biến khi người ta vô tình ăn phải loại quả của cây này.
Lời kết
Hy vọng với những thông tin trên, MedPlus sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về Dược Liệu này nhé !
Lưu ý
- Thông tin dược liệu mang tính chất tham khảo
- Người bệnh không tự ý áp dụng
- Người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng
Nguồn: tracuuduoclieu.vn
Sách Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam