Hầu hết mọi người đều gặp phải tình trạng đau bụng. Có rất nhiều nguyên nhân tiềm ẩn gây ra đau bụng. Và trong đó phải kể đến bệnh dạ dày. Bài Thuốc chữa bệnh dạ dày: Sự khởi đầu nhỏ trong thử nghiệm giúp hiểu quá trình thử thuốc.
Thuốc chữa bệnh dạ dày: Sự khởi đầu nhỏ trong thử nghiệm
1. Lý thuyết
Theo định nghĩa
Tế bào gốc phôi chuột (mESC) là tế bào có thể
- tự đổi mới (tạo ra các bản sao giống hệt của chính chúng),
- và chuyên hóa thành bất kỳ loại tế bào nào của cơ thể.
Ứng dụng
Kể từ khi phát hiện ra, các nhà khoa học đã sử dụng chúng để sản xuất
- các loại tế bào chuyên biệt khác nhau trong nuôi cấy,
- các dòng chuột chuyển gen.
Khi được tiêm vào phôi thai giai đoạn sớm của chuột, mESC có thể trở thành bất kỳ loại tế bào nào của cơ thể. Nhưng nó cũng có thể truyền cho thế hệ tiếp theo. Việc sử dụng kỹ thuật này, các nhà khoa học đã có thể tạo ra hàng trăm mô hình chuột chuyển gen. Từ đó các nghiên cứu thử thuốc (thuốc chữa dạ dạy) có kết quả vô giá đối với sự tiến bộ của sinh học và y học.
Đặc trưng
Tuy các mESC có thể tích hợp vào phôi, nhưng lúc nó được nuôi cấy trong đĩa nó không tự tổ chức thành các cấu trúc tương tự như phôi. Nếu chúng tập hợp thành những quả bóng, được gọi là cơ thể phôi, chúng có thể phát triển thành một khối vô tổ chức không giống phôi.
Van den Brink và các đồng nghiệp đã công bố, trong cơ chế phát triển, một giao thức hoạt động họ có được nhờ cấu trúc mESCs. Việc triển lãm các hoạt động tương tự như của các tế bào trong phôi thai chuột sớm được kéo dài để chuyên môn hóa tế bào.
Do đó, họ gọi những cấu trúc này là gastruloids. Nó liên quan đến sự điều hòa chức năng dạ dày. Và cũng có thể nó ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc chữa bệnh dạ dày. Bởi nó tham gia vào một quá trình có vị thế quan trọng và trung tâm của quá trình phát triển phôi giai đoạn sớm.
2. Tác dụng của thuốc chữa bệnh dạ dày
Dược động học
Trong hình này, bạn có thể nhìn thấy các tế bào ở đầu của một loại thuốc chữa bệnh dạ dày. Protein brachyury được hiển thị bằng màu xanh lá cây. Sự hiện diện của protein TCF / LEF được hiển thị bằng màu đỏ. Và Hoechst (màu xanh lam) tương ứng với nhân tế bào. Các tế bào màu vàng ở đầu cực biểu hiện cả brachyury và TCF / LEF. Đặc điểm này đại diện cho đặc trưng của các tế bào có cấu trúc vệt nguyên thủy trong phôi sớm. Việc quan sát này, cùng với những quá trình khác trong nghiên cứu, cho thấy các mô bụng hình thành bởi mESC trải qua các chuyển động phát triển giống như các mô của phôi sớm.
Hứa hẹn
Cuộc thử nghiệm này đặt ra phát kiến khả thi cho quá trình điều chế thuốc chữa bệnh dạ dày. Bởi các nhà khoa học có đủ thời gian để quan sát cơ chế hình thành tế bào mô bụng / dạ dày và cách thuốc tác động đến chúng. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn mang tính biện luận chưa được ứng dụng rộng rãi trong quá trình điều phối thuốc chữa bệnh dạ dày.
Trong giai đoạn ban đầu, chính nó đã cấp một cái nhìn lớn trong việc tìm ra các loại thuốc chữa dạ dày hiệu quả và an toàn. Ngày nay, chúng ta cũng được hưởng lợi nhờ những ý tưởng táo bạo đầu tiên này.
3. Kết luận
Mặc dù khó xác định được tác động của những quan sát thú vị như vậy. Nhưng thật hấp dẫn khi thu được những cấu trúc có tổ chức phức tạp như vậy trong ống nghiệm. Điều này hy vọng tạo được những cách thức mới để
- nghiên cứu sự phát triển sớm,
- và gỡ rối các cơ chế phát triển thuốc chữa bệnh dạ dày ban đầu cho đến nay vẫn chưa được biết đến.
Một lối sống lành mạnh có thể giúp bạn hạn chế dùng các loại thuốc chữa bệnh dạ dày. Ăn uống đúng giờ, đầy đủ, vừa no. Tập thể dục thường xuyên để nâng cao sức khỏe tinh thần và thể chất. Những cách này góp phần bảo vệ dạ dày và hệ tiêu hóa khỏi các tác nhân gây hại.
Xem thêm bài viết
- Hội chứng ruột ngắn: Tế bào gốc có thể cải thiện tình trạng này?
- Bệnh thận: Tế bào gốc có thể giúp gì trong điều trị?
- Bệnh hen suyễn có thể được điều trị bằng liệu pháp tế bào gốc?
Tài liệu tham khảo
van den Brink, S. C., Baillie-Johnson P., Balayo, T., Hadjantonakis, A-K, Nowotschin, S., Turner, D. A., and Martinez Arias A. (2014). Symmetry breaking, germ layer specification and axial organisation in aggregates of mouse embryonic stem cells.Development, 141, 4231-4242. doi: 10.1242/dev.113001
Nguồn: Tổng hợp