Site icon Medplus.vn

Ung thư gan và tình trạng men gan cao: Mối quan hệ tiềm ẩn

Cách điều trị HIV / AIDS mới và hiệu quả

Cách điều trị HIV / AIDS mới và hiệu quả

Các enzym được kiểm tra trong các xét nghiệm máu định kỳ đánh giá nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng như viêm gan tốt hơn các yếu tố khác. Bài Ung thư gan và tình trạng men gan cao: Mối quan hệ tiềm ẩn cho thấy mối liên hệ giữa hai tình trạng này.

Ung thư gan và tình trạng men gan cao: Mối quan hệ tiềm ẩn

1. Bản tin MD Anderson phát hành ngày 16/10/2012

Ý tưởng

Một nhóm các nhà khoa học Đài Loan và Trung tâm Ung thư MD Anderson của Đại học Texas cho biết mức enzyme trong máu được theo dõi thường xuyên. Vì các chỉ số biểu thị chức năng gan góp phần dự báo nguy cơ ung thư gan trong cộng đồng dân cư.

Tác giả Xifeng Wu, MD, Ph.D., giáo sư và chủ nhiệm Khoa Dịch tễ học của MD Anderson cho biết: “Hai chỉ số enzym này có thể dự đoán 91% các trường hợp ung thư gan trong các nghiên cứu của chúng tôi. Nếu nghiên cứu của chúng tôi được xác nhận, chúng tôi sẽ có một biện pháp tầm soát ung thư gan nhờ một xét nghiệm máu đơn giản đã được dùng rộng rãi.”

Thực nghiệm

Việc nhiễm vi rút viêm gan B và viêm gan C là những yếu tố dự báo nguy cơ ung thư gan. Mức độ enzym này lại có thể xác định chính xác những yếu tố dự báo nguy cơ trong dân số nói chung. Từ 30 đến 40 phần trăm những người mắc ung thư gan không bị nhiễm vi rút. Wu lưu ý không có cách nào để đánh giá rủi ro giữa các trường hợp.

Wu nói: “Biết được nguy cơ cho phép mọi người thay đổi lối sống để giải quyết các yếu tố nguy cơ khác, chẳng hạn như ngừng hút thuốc, giảm uống rượu, tham gia hoạt động thể chất và kiểm soát bệnh tiểu đường tốt hơn.”

Theo Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kì, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của bệnh nhân ung thư gan là:

2. Nghiên cứu tầm soát ung thư gan Transaminase

2.1. Bước 1

Wu và các đồng nghiệp đã đánh giá dữ liệu y tế, nhân khẩu học và lối sống toàn diện từ 428.584 người ở Đài Loan từ năm 1994 đến 2008. Những người này mua bảo hiểm tại MJ Health Management. Công ty bảo hiểm sức khỏe tư nhân lớn nhất ở châu Á. Thời gian theo dõi trung bình là 8,5 năm.

Các nhà nghiên cứu chia những người tham gia nghiên cứu thành hai nhóm: 130.533 người đã biết kết quả xét nghiệm HCV và 298.051 người còn lại. Họ phát hiện 1.668 trường hợp ung thư gan.

2.2. Bước 2

Sau đó, Wu và các đồng nghiệp phân tích dữ liệu được MJ Health Management thu thập thường xuyên dựa trên việc sàng lọc 100 yếu tố riêng biệt và một bảng câu hỏi gồm 100 mục. Thông tin bao gồm:

Ung thư gan và chỉ số men gan

2.2. Bước 3

Các nhà nghiên cứu đã phát triển các mô hình dự đoán ung thư gan bằng cách chia đôi mỗi nhóm. Điều này cho phép họ dựa trên mô hình vào một nhóm. Sau đó họ xác nhận mô hình trong nhóm thứ hai. Họ đã phân tích hồi quy từng bước để

Năm mô hình đã được phân tích:

Mẫu thứ 5 có thêm HCV, bao gồm cả 5 yếu tố. Họ tìm thấy:

2.4. Kết quả

Mức độ tăng cao của hai loại enzym, có liên quan đến việc sản xuất axit amin. Đây là một dấu hiệu cho thấy gan bị tổn thương. Các nhà khoa học phát hiện

Mô hình của họ đã được áp dụng cho tám người có nguy cơ khác nhau. Một người có HBV nhưng có transaminase bất thường có xác suất bị ung thư gan 38,2% trong 10 năm. Một người có HBV và transaminase bình thường chỉ có 0,3% nguy cơ trong 10 năm nếu các yếu tố nguy cơ khác bằng người đầu tiên.

“Chúng tôi nghĩ rằng các mô hình của chúng tôi được áp dụng chung. Nhưng các nghiên cứu xác nhận phải được thực hiện ở các quần thể khác”, Wu nói.

Các kế hoạch trong tương lai bao gồm đưa các mô hình rủi ro lên một trang web để công chúng sử dụng.

Theo Viện Ung thư Quốc gia, ước tính có khoảng 28.750 trường hợp ung thư gan mới được chẩn đoán trong năm 2012. Và 20.550 người sẽ chết vì căn bệnh này.

Trên toàn thế giới, ước tính có khoảng 749.000 trường hợp được chẩn đoán vào năm 2008, năm gần nhất. Và 695.000 người đã tử vong, theo Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế. Các nước ở Châu Á, Châu Phi và Nam Âu có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất.

3. Các chuyên gia tham gia nghiên cứu

Đồng tác giả với Wu là Chi-Pang Wen, MD, thuộc Viện Khoa học Dân số, Viện Nghiên cứu Y tế Quốc gia, Đài Loan. Và Jie Lin, Tiến sĩ, thuộc Khoa Dịch tễ học của MD Anderson. Cũng trong khoa đó còn có ba Tiến sĩ Carol Etzel, Maosheng Huang và Yuanqing Ye. Các đồng tác giả khác ở Viện Khoa học Dân số của Đài Loan là

Xem thêm bài viết

Nguồn: Tổng hợp

Exit mobile version