Cùng Medplus tìm hiểu về nguyên nhân và cách điều trị bệnh thương hàn bạn đọc nhé!
1. Bệnh thương hàn là gì?
Bệnh thương hàn là bệnh về đường tiêu hóa có khả năng lây lan trong cộng đồng, do vi khuẩn Salmonella typhi gây ra. Thời gian ủ bệnh trung bình từ 8 – 14 ngày, phụ thuộc vào số lượng vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể người bệnh.
Thương hàn là một bệnh khởi phát rất đột ngột. Trong trường hợp nhẹ, bệnh thương hàn thường không có triệu chứng. Trong trường hợp nặng, bệnh gây sốt cao kéo dài, mệt mỏi, chán ăn, đau đầu, nôn khan, táo bón hoặc tiêu chảy,… Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh có thể gây tử vong, loét thanh mạc và thủng ruột dẫn đến chảy máu.
2. Nguyên nhân bệnh thương hàn
Nguồn truyền nhiễm bệnh quan trọng của bệnh thương hàn đến từ người bệnh, khi người bệnh vẫn có thể lây nhiễm cho người khác trong thời gian ủ bệnh.
Bên cạnh đó sau khi chấm dứt các triệu chứng lâm sàng, đa số người đã khỏi bệnh vẫn mang vi khuẩn Salmonella typhi trong người và vẫn tiếp tục đào thải vi khuẩn ra môi trường bên ngoài trong khoảng thời gian từ 2 – 3 tuần. Trong một số trường hợp, người bệnh vẫn tiếp tục đào thải vi khuẩn ra ngoài môi trường trong 2 – 3 tháng.
Người mắc bệnh thương hàn do uống nước hoặc ăn những loại thức ăn bị nhiễm khuẩn, nhất là trứng, thịt bò, thịt gia cầm, sữa… Vi khuẩn thương hàn có khả năng sinh sôi trong sữa và các chế phẩm, mà không làm thay đổi tính chất hay mùi vị. Nấu chín thực phẩm là phương pháp giúp giảm bớt nguy cơ nhiễm khuẩn, nhưng không loại bỏ hoàn toàn nguy cơ.
Bên cạnh đó, thương hàn còn có thể lây truyền từ người sang người thông qua tiếp xúc trực tiếp, hay tiếp xúc với chất thải, đồ dùng bị nhiễm khuẩn từ người bệnh. Bệnh có thể xảy ra ở bất kỳ ai, bất kỳ độ tuổi nào, nhưng thường gặp nhất vẫn là những người trong độ tuổi từ 15 – 30.
Đây là nhóm tuổi có khả năng sinh sống và làm việc tại những nơi có điều kiện sống bất lợi như nguồn nước bị ô nhiễm, chất thải không được xử lý. Tuy nhiên thực tế, điều kiện vệ sinh và ý thức giữ gìn vệ sinh chung của cộng đồng đã cải thiện đáng kể so với quá khứ, nên nguy cơ lây truyền bệnh thương hàn theo con đường này đang giảm dần theo thời gian.
3. Điều trị bệnh thương hàn
Để chẩn đoán bệnh thương hàn chính xác, cần đưa bệnh nhân đến các bệnh viện hoặc các trung tâm y tế lớn được trang bị đầy đủ dụng cụ, máy móc và có các bác sĩ chuyên môn cao. Tại đó, các bác sĩ sẽ chẩn đoán bệnh thương hàn bằng cách dựa vào các triệu chứng lâm sàng như sốt hơn một tuần không rõ nguyên nhân, kèm rối loạn tiêu hóa, gan và lá lách to, nổi hồng ban.
Ngoài ra, các bác sĩ còn chẩn đoán bệnh dựa vào phương pháp cận lâm sàng: Bạch cầu máu không tăng, phản ứng với huyết thanh Widal, PCR, RIA, ELISA,… Hay dựa vào kết quả cấy vi khuẩn (+).
Tuy việc điều trị bệnh không quá phức tạp nhưng hiện nay tình trạng Vi khuẩn thương hàn kháng thuốc kháng sinh là rào cản lớn đối với các bác sĩ trong quá trình điều trị bệnh. Hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh được thông báo lần đầu tiên ở Ấn Độ năm 1960.
Tại Việt Nam, vi khuẩn thương hàn kháng Chloramphenicol 91,2%; Bactrim 96%; Ampicillin 92,8%; cùng một số loại kháng sinh mới như Claforan, Norfloxacin, Ciprobay. Trong vòng 5 – 10 năm trở lại đây, các nhà nghiên cứu đã phân lập được chủng vi khuẩn kháng thuốc với kháng sinh như nhóm Fluoroquinolone và nhóm Cephalosporin thế hệ III.
Bên cạnh điều trị đặc hiệu với kháng sinh nhóm Fluoroquinolone và nhóm Cephalosporin thế hệ III, triệu chứng của bệnh thương hàn còn được điều trị bằng cách bù nước điện giải (1500-2000ml/ngày) theo tỷ lệ Glucose 5%, Ringer Lactat, Natri clorid 9%, hạ sốt khi sốt cao, áp dụng chế độ ăn với thức ăn mềm và đủ chất dinh dưỡng trong thời gian sốt.
Xuất huyết tiêu hóa, thủng ruột và biến chứng choáng nội độc tố là những biến chứng có thể xảy ra trong quá trình điều trị bệnh thương hàn. Đối với trường hợp bị xuất huyết tiêu hóa, các bác sĩ không dịch chuyển bệnh nhân, và ngay lập tức cho chườm lạnh, sử dụng thuốc cầm máu và truyền thêm máu.
Trong trường hợp người bệnh bị thủng ruột, bác sĩ có thể chống sốc điều trị ngoại khoa. Khi bệnh nhân có biến chứng choáng nội độc tố, các bác sĩ có thể dùng thuốc kháng viêm Solu medrol 30mg/kg truyền trong 30 phút đầu và có thể lặp lại sau 4 – 6 giờ trong vòng 48 giờ.
Ngoài ra để điều trị người lành mang vi khuẩn, các bác sĩ có thể sử dụng các loại thuốc như Ciprofloxacin, Pefloxacin, Cefixim…
Tìm hiểu từ nguồn: Verywell Health
Như vậy, Medplus đã cung cấp cho bạn đọc đầy đủ thông tin hữu ích về bệnh thương hàn, hy vọng bài đọc sẽ cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin bổ ích, giúp bạn nâng cao tầm hiểu biết mà hạnh phúc hơn.
Bên cạnh đó, Medplus cũng cung cấp một số thông tin liên quan :