A. Thông tin về Thạch sùng
Ngoài tên gọi gốc phổ biến, người ta còn hay gọi chúng với các tên như: Mối rách-thủ cung-thiên long, Bích cung, Hát hổ, Bích hổ. Đây là loài sinh vật xuất hiện rất nhiều trong tự nhiên và cả trong khu vực thành thị. Chúng còn được khai thác làm các bài thuốc điều trị nhiều bệnh hiệu quả.
Tên khoa học: Hemidactylus frenatus Schlegel
Họ: Gekkonidae.
1. Mô tả con vật
- Thạch sùng có nhiều loại. Người ta thường dùng những con có màu trắng bắt được trên tường và trần nhà.
- Thông thường nhất có loài thạch sùng Hemidactylus frenatus Schlegel. Loài nà toàn thân (cả đuôi) dài chừng 8-12cm, trông giống con tắc kè hay con thằn lằn nhưng nhỏ hơn, mắt dọc, lưỡi dài hay thè ra khỏi miệng để bắt những con sâu bọ nhỏ như ruồi, muỗi, nhện mà ăn. Thân nhẵn hay hơi có vảy rất nhỏ; lưng màu tro hay tro vàng, bụng màu trắng hay vàng trắng 4 chân có những màng dính để bám chắc trên tường mà đi; đuôi dài có thể đứt rồi lại mọc lại sau một thời gian.
2. Phân bố, thu hái và chế biến
Phân bố: Đây là loài động vật sống hoang khắp nơi ở những vùng nhiệt đới. Ngoài ra, Miền nam Trung Quốc cũng có và cũng được dùng làm thuốc.
Thu hái: Vào mùa hè, khi ta thắp đèn thường sẽ thấy thạch sùng xuất hiện, có thể dùng tay mà bắt. Có khi người ta dùng sống, nhưng cũng có thể sấy khô để dành dùng dần.
Chế biến: Tại Trung Quốc, người ta thường dùng thạch sùng sấy khô. Ở nước ta hay dùng sống; khi bắt được dùng uống ngay. Dùng toàn con, cả ruột; chú ý bảo vệ lấy đuôi. Nếu bảo quản, cần giữ nơi thật khô ráo vì rất dễ sinh sâu mọt. Nên để trong hộp kín có đựng vôi sống. Khi vôi tả rồi lại thay vôi khác.
3. Thành phần hoá học
Năm 1970, Trần Huyền Trân đã chiết được từ thạch sùng một loại chất béo có chỉ số I-ốt, với tỷ lệ 11,92% trong con non, 15,38% trong con đực trưởng thành và 15,97% trong con cái trưởng thành.
Bằng sắc ký lớp mỏng so sánh với mẫu, đã thấy trong chất béo có lexitin, lyzolexitin, sphingomyelin và xephalin, cardiolipin, photphatidyl serin và photphatidylinontola.\
So sánh bản sắc ký của chất béo chiết ở thạch sùng với chất béo chiết ở tắc kè thì thấy hai loại chất béo này cho những vết ở những Rf rất giống nhau. Tác giả đã đi đến kết luận hy vọng có thể dùng thạch sùng thay cho tắc kè trong một số trường hợp và trên thực tế nhân dân cũng đã dùng tắc kè và thạch sùng để điều trị một số bệnh tương tự (Luận án tốt nghiệp dược sĩ cao cấp, 1970, Hà Nội).
B. Công dụng, liều dùng
1. Tính vị, công dụng
Thạch sùng còn là một vị thuốc dùng trong nhân dân. Có thấy ghi trong các sách cổ như trong bộ “Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân (thế kỷ thứ 16). Trong bộ “Nam dược thần hiệu” của Tuệ Tĩnh “Việt Nam, thế kỷ 17”, cũng thấy ghi ở mục loài có vảy (.Lân bộ) dùng làm thuốc với tên “Thủ cung”.
Trong các sách cổ có ghi: Thạch sùng vị mặn, tính hàn, hơi có độc, được quy vào 2 kinh Tâm và Can. Có tác dụng trừ phong, chữa đau các khớp xương, trúng phong (cảm gió), trị cam lỵ trẻ con và tiêu hòn cục (báng), kinh giản, tràng nhạc, rắn rết cắn.
2. Liều dùng
Trên thực tế ở Việt Nam thường chỉ thấy dùng chữa bệnh tràng nhạc (lao hạch) bằng cách bắt thạch sùng cho vào chuối mà nuốt sống.
Liều dùng hằng ngày: Mỗi ngày 1 hay 2 con.
Nhân dân Trung Quốc dùng thạch sùng dưới hình thức phơi hay sấy khô tán bột mà uống chữa mụn nhọt, thần kinh suy nhược, bệnh về dạ dày và ruột, tiêu hóa kém, kém ăn, bán thân bất toại, viêm khớp mãn tính, đau thần kinh, nhức đầu kinh niên mà không rõ nguyên nhân. Chú ý nghiên cứu.
C. Chú thích
Ngoài loại thạch sùng H. Frenatus nói trên, người ta còn dùng cả con Hemidactylus korenorum và một số hemidaciylus khác.
Tại Trung Quốc người ta còn dùng các con Gecko chirnensis Gray, Gecko japonicus Dumeril et Bibron thuộc cùng họ.