Bí Ngô – loại quả giàu giá trị dinh dưỡng tốt cho sức khoẻ. Không chỉ vậy, bí ngô còn là dược chất được ứng dụng để chữa trị bệnh. Hãy cùng tìm hiểu cùng với Mesplus nhé!
Thông tin cơ bản của bí ngô
Tên tiếng việt: Bí ngô, Bí đỏ, Bí rợ, Nam qua, Má ứ (Thái), Phặc đeng (Tày), Plăc ropual (Kho), Nhấm (Dao)
Tên khoa học: Cucurbita moschata (Duch. ex Lam.) Duch. ex Poir.
Tên đồng nghĩa: Cucurbita pepo L.var. moschata Lam.
Họ: Cucurbitaceae (Bầu bí)
Đặc điểm cây
- Cây thảo, sống một năm. Thân có năm cành, có lông dày, thường có rễ ở những đốt.
- Lá mọc so le, có cuống dài 8 – 20cm, phiến lá mềm, hình trứng rộng hoặc gần tròn, chia thùy nông, đầu tròn hoặc hơi nhọn, mép có răng cưa, hai mặt lá có nhiều lông mềm, đôi khi có những đốm trắng ở mặt trên; tua cuốn phân nhánh.
- Hoa đơn tính cùng gốc, màu vàng; hoa đực có đế hoa ngắn; đài loe rộng có thùy hình dải hoặc gần dạng lá, tràng hoa có 5 thùy rộng: hoa cái có lá đài dạng lá rõ, hầu hình tròn hoặc hơi dài. Mùa hoa vào tháng 3-4
- Quả to, cùi dày, rỗng giữa có nhiều dạng: dạng tròn, hơi dẹt, có rãnh sâu; dạng hình trứng hoặc hình trứng hơi dài, có khía rãnh, vỏ ngoài nhăn, khi chin màu vàng trắng, vỏ giữa màu vàng cam, có mùi thơm, vị ngọt lợ, cuống quả có rãnh và loe rộng ở chỗ tiếp giáp với quả. Mùa quả vào tháng 5-6.
- Hạt màu trắng xám, có mép mỏng và màu sẫm hơn.
Nơi sinh sống và sinh thái
- Chi Cucurbita L. có khoảng 25 loài, nguồn gốc ở châu Mỹ. Trong đó, có 5 loài là cây trồng.
- Ở Việt Nam, các loài bí ngô, bí đỏ đều là các loài cây trồng quen thuốc khắp từ Bắc chí Nam. Cây được trồng gần như quanh năm, thích nghi cao với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, nhiệt độ từ 18 – 250C. Gần đây, cây cũng được đưa lên trồng ở vùng núi cao (Sa Pa – Lào Cai, Phố Bảng – Hà Giang) vào vụ xuân hè, nhiệt độ từ 18 – 220C. Cây trồng ở đây chủ yếu chỉ lấy ngọn và lá non làm rau ăn. Trồng ở những vùng thấp hơn và ở đồng bằng thì vừa lấy ngọn làm rau ăn vừa lấy quả.
Cách trồng
- Bí ngô được trồng phổ biến trong nhân dân để lấy quả, hoa, ngọn và lá non làm rau ăn, quả chín và hạt làm thuốc. Cây có khả năng thích nghi rộng rãi, có thể trồng được ở mọi nơi, trên nhiều loại đất, trừ đất có nhiều sỏi đá và ngập nước.
- Bí ngô được trồng bằng hạt. Một quả cho rất nhiều hạt, hạt dễ nảy mầm nên có khả năng nhân giống cao.
- Ở miền núi, do mùa đông quá lạnh nên thường gieo hạt vào tháng 2 – 3. Ở trung du và đồng bằng nếu trồng lấy quả thì gieo vào tháng 10 – 11, nếu trồng lấy ngọn làm rau thì lại gieo vào tháng 2 – 3.
Thành phần hoá học, tác dụng dược lý của bí ngô
Thành phần hoá học
- Quả bí ngô chứa 88,3 – 87,2% nước; 1,4 – 1,83% protid; 0,5 – 0,43% lipid; 9 – 9,33% chất không có nitrogen. Thịt quả tươi chứa 2,81% đường. Ngoài ra, quả còn chứa carotene, xauthopin và các nguyên tố vi lượng như sắt, mangan, đồng, kẽm và arsenic.
- Hàm lượng cucurbita là 0,40 – 0,84%.
- Quả còn chứa vitamin B1, B2, C. Hạt bí ngô chứa globulin.
- Nhân chứa 3 – 4% chất vô cơ, vào khoảng 30% protid và khoảng 45 – 50% dầu béo.
- Dầu béo bao gồm: các glycerid của các acid béo không no (acid oleic và acid linoleic). Cucurbitin là hoạt chất, có với tỉ lệ 0,40 – 0,84%.
Tác dụng dược lý, tính vị
- Các hạt tươi của Cucurbita pepo có tác dụng trị giun và sán. Hạt tươi của C.moschata ức chế sự sinh sản của giun non Schistosoma japonica.
- Hạt bí ngô có vị bùi, béo, tính ấm, có tác dụng trừ giun sán.
Công dụng, liều dùng
Hạt của cây bí ngô rửa sạch rồi phơi khô hoặc sấy khô, dùng để chữa bệnh giun sán. Người lớn, ngày uống 20 – 40g hoặc hơn nữa (hạt đã bỏ vỏ). Đối với trẻ em, liều lượng tùy theo tuổi. Tác dụng trị sán của bí ngô tuy không mạnh bằng dương xỉ đực (Aspidium filix – mas Roth.) nhưng không độc với cơ thể.
Cách dùng
Chiều hôm trước ngày uống thuốc, thụt hoặc uống thuốc tẩy muối nhẹ. Hạt bí ngô có thể được dùng theo một trong những cách sau:
- Hạt đã bóc hết vỏ cứng để nguyên màng xanh ở trong. Người lớn dùng 100g giã nhỏ trong cối, thêm 50 – 100g mật, siro hoặc đường và trộn đều. Bệnh nhân ăn vào lúc đói hết cả liều trong vòng 1 giờ, nằm nghỉ 3 giờ, sau đó uống thuốc tẩy muối, đi ngoài trong một chậu nước ấm, nhúng cả mông vào. Trẻ em 3 – 4 tuổi, ăn 30g; 5 – 7 tuổi, ăn 50g; 7 – 10 tuổi, ăn 75g.
- Hạt bí ngô uống phối hợp với nước sắc hạt cau. Do nghiên cứu thấy nước sắc hạt cau có tác dụng làm tê liệt sán bò và sán lợn, nhưng chỉ mạnh với đầu con sán và những đốt chưa thành thục, trái lại hạt bí ngô có tác dụng chủ yếu là tê liệt các khúc giữa và khúc đuôi con sán.
- Theo tài liệu nước ngoài, hạt cucurbita moschata và hạt cucurbita pepo được dùng trị giun sán và tiêu chảy. Liều dùng là 30 – 60g hạt đã bóc vỏ và nghiền nhỏ, trộn với nước và làm thơm bằng tinh dầu quế hay tinh dầu lộc đề.
- Theo kinh nghiệm của nhân dân ta, cùi quả bí ngô (thịt quả) có tác dụng bổ thần kinh, điều hòa tỳ vị, bổ khí lực, nhuận tràng nên vẫn được dùng để chữa nhức đầu, suy nhược thần kinh, táo bón. Ngày dùng 100 – 200g dưới dạng nấu ăn.
Lời kết
Hy vọng với những thông tin trên, MedPlus sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về một số tác dụng hay về loại dược liệu này!
Lưu ý
- Thông tin dược liệu mang tính chất tham khảo.
- Người bệnh không tự ý áp dụng.
- Người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng.
Nguồn: Tracuuduoclieu.vn