Là một loại cây ăn quả phổ biến ở nước ta. Cây Bưởi không những mang lại nhiều giá trị dinh dưỡng. Mà còn có tác dụng của một dược liệu được áp dụng trong dân gian. Những tác dụng đó là gì? Hãy cùng tìm hiểu với Medplus nhé!
Thông tin cơ bản
Tên tiếng việt: Bưởi, Chu loan, Mác pục (Tày), Plài pình (Kho)
Tên khoa học: Citrus grandis (L.) Osb.
Tên đồng nghĩa: Citrus aurantium var. grandis L.
Họ: Rutaceae (Cam)
Đặc điểm cây
- Cây nhỡ, cao 8 -12 m. Cành có gai nhỏ ở kẽ lá, lúc đầu có lông, sau nhẵn.
- Lá mọc so le, phiến dài, hình trái xoan hoặc hình trứng, gốc và đầu tù, mặt trên nhẵn bóng, mặt dưới nhạt, có gân lồi nổi rõ, cuống lá có cánh rộng tạo với phiến lá thành hình số 8.
- Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm 6 -10 hoa màu trắng rất thơm, lá bắc và cuống hoa có lông, đài hình đẩu, có 4-5 răng nhỏ hàn liền, tràng có 5 cánh dài, rời nhau, nhị nhiều, ngắn bằng nửa cánh hoa, xếp tỏa tròn rất sít ոhau, bầu hình cầu, có lông.
- Quả hình cầu, cùi rất dày, màu vàng hoặc màu đỏ nhạt (tùy giống), trong có nhiều múi mọng nước, hạt dẹt có cạnh và chất nհầy bao quanh. Lá và vỏ quả có tinh dầu thơm
- Mùa hoa: tháng 3-5, mùa quả: tháng 8 – 11.
- Có nhiều giống bưởi với màu sắc, vị chua ngọt khác nhau. Một số giống được ưa chuộng hơn cả là bưởi Đoan Hùng (Phú Thọ), bưởi Biên Hòa (Đồng Nai), bưởi Phúc Trạch (Hà Tĩnh) ngọt nhiều nước bưởi Nghệ, bưởi đường ngọt, ít nước, quả có núm, bưởi đào (ruột màu đỏ nhạt), bưởi gấc (vỏ và ruột màu đỏ) thường chua. Vỏ của chúng cũng được dùng, nhưng phổ biến hơn là vỏ bưởi đào.
Nơi sống và đặc điểm sinh thái
- Bưởi có nguồn gốc ở vùng Ấn Độ – Malaysia. Cây được trồng ở hầu hết các nước Đông Nam Á và Nam Á. Ở Việt Nam, bưởi là cây trồng từ lâu đời, bao gồm nhiều giống, khó phân biệt về mặt phân loại thực vật.
- Cây ưa sáng, ưa vùng có khí hậu nhiệt đới. Ở núi cao có nhiệt độ trung bình 13 – 18°C thường không trồng được bưởi, hoặc nếu có thì đó là giống bưởi bị bỏ hoang hoá, quả chua và đắng đến mức không ăn được. Cây thích nghi với loại đất feralit đỏ vàng hay vàng đỏ, có hàm lượng mùn trung bình và hơi chua.
- Bưởi thường rụng lá vào mùa đông hoặc mùa khô (ở miền Nam). Đến cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm sau, đồng Thời với sự ra lá non, cây cũng bắt đầu mùa hoa quả. Hoa tự thụ phấn hoặc nhờ côn trùng. Tái sinh tốt bằng hạt và cây chồi sau khi chặt.
Bộ phận dùng
Lá, hoa, dịch ép múi bưởi, vỏ quả và hạt.
Thành phần hoá học, tính vị
Thành phần hoá học
Vỏ quả ngoài rất giàu chất narin-gosid, do đó có vị đắng, trong vỏ có tinh dầu, tỷ lệ 0,80-0,84%Quả chứa 0,5% tinh dầu; trong lá cũng có tinh dầu. Tinh dầu vỏ bưởi chứa d-limonen, a- pinen, linalol, geraniol, citral; còn có các alcol, pectin, acid citric.
Dịch quả chín có nhiều chất bổ dưỡng: nước 89%, glucid 9%, protid 0,6%, lipid 0,1% và các khoáng Ca 20mg%, P 20mg%, K 190mg%, Mg 12mg%, S 7mg% và Na, Cl, Fe, Cu, Mn… Có các vitamin (tính theo mg%) C 40, B 0,07, B2 0,05 PP 0,3 và tiền sinh tố A 0,1. 100 mg dịch quả cung cấp cho cơ thể 43 calo.
Tính vị, công năng
Lá bưởi có vị đắng, cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng trừ hàn, tán khí, thông kinh lạc, giải cảm, trừ đờm, tiêu thực, hoạt huyết, tiêu sưng, vỏ quả bưởi có vị đắng, cay, mùi thơm, tính bình.
Có tác dụng trừ phong, hóa đờm, tiêu báng (lách to), tiêu phù thũng, hòa huyết, giảm đau.
Công dụng và những bài thuốc
Công dụng, liều dùng
- Vỏ quả bưởi được dùng chữa ho, đờm tích đọng ở họng và phế quản, đau bụng, ăn uống không tiêu. Bỏ lớp cùi trắng, lấy lớp vỏ vàng rồi sao. Ngày dùng 4 -12 dưới dạng thuốc sắc uống.
- Lá bưởi già chữa cảm sốt, ho, nhức đầu, hắt hơi. Kém ăn, sưng đau chân do hàn thấp chướng khí, giảm đau do trúng phong, tê bại. Ngày dùng 10 – 20g lá tươi. Sắc uống. Có thể nấu nước để xông và ngâm chân và dùng lá xát vào chân. Lá bưởi non được nướng chín để nắn, xoa bóp chỗ đau cho tan máu ứ, sai khớp. sưng, bong gân, gãy xương do ngã hay bị đánh đập. Sau đó lấy lá khác giã nát bó vào chỗ bị tổn thương. Lá bưởi tươi nấu với nhiều lá thơm khác để xông chữa cảm cúm, nhức đầu. Có thể dùng lá để cất tinh dầu. Nhưng có hại cho sự ra hoa kết quả.
- Vỏ hạt bưởi có thể dùng lấy pectin làm thuốc cầm máu, và dùng chải tóc để cố định tóc giống như dùng gôm adragran. Dịch ép múi bưởi là thuốc chữa tiêu khát (đái tháo), thiếu vitamin C, làm nguyên liệu chế acid citric thiên nhiên. Nước hoa bưởi được cất từ hoa bưởi và dùng phối hợp với nhiều dược liệu có mùi thơm khác như hồi, quế để làm thơm các thức ăn. bánh ngọt, nước giải khát.
- Trong y học cổ truyền Trung Quốc, bưởi được dùng làm thuốc long đờm và dễ tiêu.
Kiêng kỵ: người suy nhược do can hoả nhiệt không nên dùng.
Những bài thuốc về Bưởi
1. Chữa cảm sốt và cúm cả hai thể phong hàn và phong nhiệt:
- Thể phong hàn: Sốt nhẹ, sợ lạnh, không có mồ hôi. nước mũi trong, đờm loãng, rêu lưỡi mỏng trắng. mạch phù.
- Thể phong nhiệt: Thường sốt cao, hơi sợ gió, đau đầu, tự ra mồ hôi, khát nước, chảy nước mũi đặc, nước tiểu vàng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch nhanh. Dùng nồi nước xông với các lá, bưởi, sả, tía tô, kinh giới, bạc hà, mỗi thứ một nắm lá tươi đem đun sôi với nước, xông trong 5 – 10 phút.
2. Chữa đau dạ dày:
Vỏ quả bưởi đào, lá dạ cẩm, vỏ quít, ba vị bằng nhau, tán nhỏ. Liều uống mỗi lần 5g, ngày 2 lần.
3. Thuốc tẩy:
Vỏ quả bưởi the 12g, đọt lá muồng trâu 20g, vỏ cây đại 20g. Sắc với 2 bát nước còn một bát, uống hết một lần.
4. Chữa thũng trướng:
- Vỏ quả bưởi đào, mộc thông, bồ hóng, mỗi vị 20 – 30g, diêm tiêu 12g, cỏ bấc 8 g. Sắc uống mỗi ngày hai lần vào lúc đói và ăn một khẩu mía trước và sau khi uống thuốc.
- Kiêng muối và chất mặn (Bách gia trân làng của Lãn Ông)
5. Chữa phù thũng sau khi đẻ và các trường hợp phù thũng khác:
- Vỏ bưởi khô, ích mẫu, các vị bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 8g với rượu vào lúc đói, hoặc dùng mỗi vi 20-30g. Sắc uống (Bách giả trân tàng).
6. Bài thuốc tiêu phù:
Vỏ bưởi đào 600g, cỏ roi ngựa 500g, bồ hóng bếp 400g, bích ngọc đơn 400g, ích mẫu 300g, hồi hương 200g, quế thanh 200g, phèn phi 200g, phèn chua 100g. Tán bột làm hoàn, ngày uống 20g.
7. Chữa cảm lạnh, đau bụng do lạnh:
Vỏ bưởi khô, đốt và xông hơ vào rốn.
8. Chữa chốc đầu trẻ em:
- Hạt bưởi bóc vỏ cứng ngoài, xâu vào sợi dây thép, phơi khô, đốt trên ngọn lửa cho cháy thành than, rồi nghiền nhỏ. Rửa sạch chỗ chốc đầu bằng nước ấm. Thấm khô rồi bôi bột than hạt bưởi.
- Ngày bôi 1 – 2 lần. Thời gian điều trị khoảng 3 – 6 ngày.
Lời kết
Hy vọng với những thông tin trên, MedPlus sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về một số tác dụng hay về loại dược liệu này!
Lưu ý
- Thông tin dược liệu mang tính chất tham khảo.
- Người bệnh không tự ý áp dụng.
- Người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng.
Nguồn: Tracuuduoclieu.vn