Còi xương là bệnh gì?
Còi xương là bệnh lý khá phổ biến ở trẻ em, biểu hiện bằng tình trạng loạn dưỡng xương. Bệnh còi xương do sự khiếm khuyết quá trình khoáng hóa ở sụn tăng trưởng của xương dài. Chứng nhuyễn xương do quá trình khoáng hóa chất nền xương bị suy giảm.
Bệnh còi xương và chứng nhuyễn xương thường xảy ra cùng nhau trong khi sụn tăng trưởng còn đang mở. Chứng nhuyễn xương cũng có thể xảy ra sau khi sụn tăng trưởng đã dính. Bệnh còi xương có thể biểu hiện khi còn nhỏ ở cánh tay đoạn xa, đầu gối, và các khớp sụn sườn. Vì đây là những vị trí tăng trưởng xương nhanh, yêu cầu lượng lớn canxi và photphat cho quá trình khoáng hóa.
Đặc điểm đặc trưng bao gồm xương mở rộng ở cổ tay và đầu gối, chân cong. Cột sống bị biến dạng, gãy xương, nhức xương, và bất thường ở răng.
Nguyên nhân gây bệnh còi xương
Nguyên nhân chủ đạo gây ra bệnh còi xương là thiếu Vitamin D. Vitamin D được cung cấp từ hai nguồn: ngoại sinh và nội sinh.
- Ngoại sinh là từ thức ăn, sữa mẹ, nguồn này chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Vitamin D tan trong dầu nên nếu thức ăn của trẻ không có dầu mỡ dẫn đến giảm hấp thu Vitamin D.
- Nội sinh là từ một tiền chất dưới da, dưới tác động của ánh sáng mặt trời chuyển hóa thành Vitamin D3. Đây là nguồn chủ đạo để tham gia vào chuyển hóa tạo xương của trẻ. Do đó còi xương hay gặp ở trẻ em là bệnh còi xương do thiếu Vitamin D.
Một nguyên nhân khác hiếm gặp hơn là thiếu Vitamin K2. Một protein vận chuyển canxi tạo xương hay thiếu một số khoáng chất canxi, photpho, kẽm, magie là những thành phần của xương.
Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh còi xương
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh còi xương có thể bao gồm tăng trưởng chậm, đau cột sống, xương chậu và chân, yếu cơ.
Bệnh còi xương có thể ảnh hưởng đến phát triển của con bạn bởi vì bệnh sẽ làm suy yếu xương. Dẫn đến dị tật ở trẻ, chẳng hạn như:
- Chân cong hoặc hai đầu gối chụm vào nhau;
- Cổ tay và mắt cá chân dày lên;
- Xương ức nhô ra.
Đối tượng của bệnh còi xương
Bệnh thường hay gặp ở lứa tuổi dưới 3 tuổi. Vùng dịch tễ hay gặp trẻ em bị bệnh là miền núi, nơi sương mù nhiều, ít ánh nắng. Do đó dẫn đến việc tổng hợp Vitamin D bị thiếu. Ảnh hưởng đến quá trình hấp thu và chuyển hóa của Canxi và Photpho, là những nguyên liệu cần thiết tạo nên bộ khung xương.
Tuy nhiên trẻ em thành thị cũng có thể bị còi xương do trẻ được bao bọc quá kỹ trong nhà, không được tắm nắng thường xuyên cũng dẫn đến thiếu tổng hợp Vitamin D. Bệnh còi xương còn do rối loạn chuyển hóa Vitamin D, khiến không đủ Vitamin D3 là loại tham gia vào quá trình chuyển hóa tạo xương.
Bác sĩ chẩn đoán bệnh như thế nào?
Bác sĩ sẽ chẩn đoán bệnh bằng cách kiểm tra xương của bé. Họ sẽ đặc biệt chú ý đến:
- Hộp sọ. Những em bé còi xương thường có xương sọ mềm hơn và chậm trễ trong việc đóng thóp;
- Chân. Trẻ phát triển bình thường đôi khi vẫn có tình trạng chân vòng kiềng nhẹ. Đối với trẻ còi xương thì tình trạng này xảy ra nặng hơn;
- Ngực. Một số trẻ em còi xương có lồng ngực phát triển bất thường như không có độ cong bình thường và làm cho xương ức của bé nhô ra;
- Cổ tay và mắt cá chân. Trẻ em còi xương thường có cổ tay và mắt cá chân to hơn hoặc dày hơn bình thường;
Các xét nghiệm khác được sử dụng để giúp chẩn đoán bệnh còi xương bao gồm X-quang, máu và xét nghiệm nước tiểu.
Cách điều trị bệnh còi xương
Bạn cần chắc chắn bé có đủ vitamin D từ thực phẩm hoặc ánh sáng mặt trời. Nếu không, bé cần phải bổ sung vitamin D trong quá trình điều trị. Con bạn sẽ nhận được 1000-2000 đơn vị quốc tế (IU) vitamin D mỗi ngày. Đôi khi, bé có thể nhận lượng vitamin D cao hơn nhiều theo sự chăm sóc của bác sĩ. Lượng canxi cần thiết là 1000-1500 mg/ngày, có thể là từ thực phẩm giàu canxi hoặc do bổ sung.
Trẻ em bị còi xương di truyền thường được chuyên gia về hormone (nội tiết) điều trị.
Các biện pháp ngăn ngừa bệnh còi xương
Để ngăn ngừa bệnh, bạn cần đảm bảo trẻ ăn thức ăn có chứa vitamin D hoặc đã được bổ sung vitamin D, chẳng hạn như:
- Dầu cá;
- Cá béo (cá hồi, cá mòi, cá ngừ);
- Nấm hương;
- Lòng đỏ trứng;
- Sữa bột cho trẻ sơ sinh;
- Ngũ cốc;
- Bánh mì;
- Sữa, nhưng không phải thực phẩm làm từ sữa như sữa chua và phô mai;
- Nước cam.
Nếu bạn đang mang thai, hãy hỏi ý kiến bác sĩ về việc uống bổ sung vitamin D.
Sữa mẹ chỉ chứa một lượng nhỏ vitamin D, vì vậy bé bú sữa mẹ nên được bổ sung 400 đơn vị quốc tế (IU) vitamin D hàng ngày. Học viện bác sĩ nhi khoa Hoa Kỳ đề nghị rằng trẻ bú sữa mẹ hay những trẻ uống ít hơn 1 lít sữa công thức nên bổ sung bằng cách uống vitamin D.
Tắm nắng là nguồn cung cấp vitamin D tốt nhất cho bé. Làn da sản xuất ra vitamin D khi nó tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Khi bạn cho bé tắm nắng, hãy nhớ mặc quần áo bảo hộ hoặc thoa kem chống nắng cho con mình. Tuy nhiên, kem chống nắng cũng có thể ngăn ánh sáng mặt trời, nên tốt nhất bạn hãy cho bé tắm nắng trước 7 giờ sáng.
Khi nào cần gặp bác sĩ
Bài viết đã cung cấp cho bạn thông tin cơ bản về bệnh còi xương. Hy vọng giúp bạn có thể bổ sung kiến thức nhằm phát hiện được bệnh sớm hoặc phòng tránh các nguy cơ tiềm ẩn. Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo. Không thể bằng lời khuyên của bác sĩ chuyên khoa. Nếu bạn đang có các dấu hiệu trên hãy đến ngay các cơ sở y tế gần nhất để thăm khám và điều trị kịp thời bạn nhé.
Các bài viết liên quan:
Nguồn tham khảo: Tổng hợp