Chấn thương sọ não là gì?
Chấn thương sọ não thường bắt nguồn từ các loại chấn thương về não gồm: chảy máu, chấn động mạnh (rung động não hay não bị bầm). Những chấn thương này được phân loại dựa theo mức độ nghiêm trọng hay loại chấn thương (ví dụ: chấn thương đóng hay mở).
Ngoài ra, chấn thương cũng được phân loại dựa theo mức độ gây nứt xương sọ, tổn thương bên trong não hoặc tại vị trí gây chảy máu. Các chấn thương nặng ở đầu gây tổn thương sọ não (TBI) sẽ biến chứng sang bệnh nặng hơn hoặc thậm chí là tử vong.
Triệu chứng & dấu hiệu của chấn thương sọ não
Triệu chứng sẽ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng và loại chấn thương đó, nó có thể xuất hiện ngay lập tức hoặc sẽ phát triển chậm. Những bệnh nhân mức nhẹ có thể còn hoặc mất ý thức trong một thời gian ngắn.
Những triệu chứng liên quan gồm có:
- Đau đầu
- Rối loạn hành vi
- Cảm giác choáng váng
- Chóng mặt
- Hoa mắt
- Ù tai
- Mệt mỏi.
- Bệnh nhân còn có thể bị rối loạn giấc ngủ và cảm xúc, gặp rắc rối với trí nhớ, sự tập trung, chú ý, hay suy nghĩ.
Bị chấn thương sọ não ớ mức trung bình hay nặng có thể:
- Nhức đầu dữ dội
- Nôn mửa
- Buồn nôn
- Co giật
- Không có khả năng thức dậy
- Giãn đồng tử
- Nói lắp
- Thêm vào đó, có thể bị suy nhược nặng hoặc tê liệt, mất phối hợp và tăng sự nhầm lẫn hay có cảm giác bồn chồn cũng như kích động cũng có thể xảy ra.
Những tổn thương do chấn thương sọ não gây ra
Chấn thương sọ não gây ra 2 tổn thương chính: tổn thương nguyên phát & tổn thương thứ phát, ngoài ra có biến chứng muộn khác, chẳng hạn như bị động kinh do sẹo não.
1.Tổn thương nguyên phát
Hình thành ngay sau khi bị chấn thương sọ não thường gồm có: tổn thương vòm sọ, vỡ sàn sọ, dập não, lõm sọ ở trẻ em, lõm sọ ở người lớn.
- Nứt sọ: chỉ khi người bệnh chụp X-quang thì mới có thể phát hiện ra các đường nứt trong não. Nhưng nứt não có thể không cần điều trị tuy nhiên cần được theo dõi thêm tình trạng này nó có tiến triển sang giai đoạn bệnh khác không.
- Lõm sọ ở trẻ em: tập trung chủ yếu ở trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh, nguyên nhân là do khi trẻ còn nhỏ, não bộ chưa hoàn thiện và còn rất mỏng manh. Phần vị trí lõm sọ hầu hết sẽ được ghi nhận ở các chỗ lồi của xương đỉnh hay da bên ngoài thường nguyên vẹn. Ở trong trường hợp này, thông thường màng não và mô não ở bên dưới sẽ không bị tổn thương.
- Lõm sọ ở người lớn: sẽ rất nguy hiểm đồng thời có nguy cơ viêm xương sọ và viêm màng não. Nguyên nhân gây ra là do xương sọ thường sẽ bị vỡ thành nhiều mảnh gài vào nhau.
- Dập não: tình trạng bệnh vô cùng nguy hiểm và cũng có nguy cơ tử vong lên đến 70%. Trường hợp xảy ra chủ yếu là do va chạm mạnh gây ra tổn thương như bị tai nạn giao thông.
Trạng thái bị giập não gồm tổn thương ở các tế bào não ví dụ như hoại tử và các mạch máu não như đứt, đụng dập, huyết khối dẫn đến nhồi máu não, tụ máu não; máu thường chảy vào dịch não tủy.
Trường hợp tình trạng dập não lan vào bên trong sâu sẽ có thể hình thành nên một khối máu tụ trong mô não, đây là tổn thương thứ phát. Khi xảy ra tai nạn, tổn thương trực tiếp sẽ xảy ra ở đáy thùy trán, cực thái dương và não sẽ bị dập do va chạm mạnh vào trần hốc mắt và sẽ vào cánh nhỏ của xướng bướm.
Trong nhiều trường hợp thì hình thành nhanh chóng một khối máu tụ dưới màng cứng tại khu vực đó, đó là một tổn thương thứ phát. Và về sau chung quanh tại khu vực giập não có phù não rõ và đây cũng là một tổn thương thứ phát
- Vỡ sàn sọ: thường các đường nứt sọ ở vòm sọ sẽ lan xuống đến nền sọ. Và đa số các trường hợp nứt thường nằm ở tầng giữa và sẽ có liên quan đến vùng xương đá cùng các dây thần kinh sọ não lân cận như: dây thần kinh số III, IV, V, VI, VII, VIII; hoặc có khi chảy vào dịch não tủy hoặc máu ra lỗ tai ngoài
2. Tổn thương thứ phát
Chúng chưa có ngay sau khi bị chấn thương sọ não mà sẽ hình thành dần về sau bao gồm: phù não, các loại máu tụ trong sọ, các tổn thương muộn khác.
- Phù não: hậu quả chung của tất cả chấn thương sọ não nặng, nguyên nhân là do mạch bắt nguồn tổn thương ở hàng rào máu não. Tình trạng sẽ càng trở nên trầm trọng hơn khi độc hại tế bào gây nên bởi rối loạn trao đổi chất điện giải giữa, trong và ngoài tế bào.
Khối lượng não trong trường hợp này sẽ tăng lên, tình trạng phù não thường nặng ngay khu vực bị giập não. Vì thế lại có thêm một nguyên nhân làm cho áp lực trong sọ não lại tăng lên, đến khi áp lực này cao hơn huyết áp tâm thu, lượng máu cung cấp cho não giảm đi, não lại bị phù nặng hơn vì thiếu máu cục bộ.
- Máu tụ ngoài màng cứng: nguồn gây ra sự chảy máu thường bắt nguồn từ một đường nứt sọ, đặc biệt là ở trẻ em hay từ động mạch màng não bị rách khi bị chấn thương làm cho nó long ra khỏi rãnh ở mặt bên trong xương sọ mà nó vẫn áp sát vào trước đây.
Thực tế tính chung thì trong tổng số các trường hợp bị chấn thương sọ não thì có đến khoảng 1 – 3% bị máu tụ ngoài màng cứng, và nếu chỉ tính riêng số chấn thương sọ não nặng thì có tới khoảng 10% các trường hợp bị loại máu tụ này.
- Máu tụ dưới màng cứng cấp diễn: Các triệu chứng của máu tụ dưới màng cứng cấp tính thường sẽ xuất hiện ngay sau khi chấn thương đầu. Có thể sau vài phút cho đến 24 – 48 giờ. Bệnh nhân có thể bị bất tỉnh ngay thời điểm chấn thương đầu tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng xảy ra.
Bệnh nhân có thể có một vài giờ tỉnh táo sau khi bị chấn thương, tuy nhiên sau đó thì trở nên không khỏe. Có thể bị ngất hoặc hôn mê khi mà khối máu tụ hình thành. Nếu không ngất có thể sẽ cảm thấy ngầy ngật hoặc bị đau đầu rất nhiều. Và cũng có thể cảm thấy khó chịu hay nôn mửa, bị lú lẫn, yếu tay chân ở một bên, nói khó khăn và thậm chí đôi khi co giật có thể xảy ra.
- Máu tụ dưới màng cứng mạn tính: Các triệu chứng của một tụ máu dưới màng cứng mãn tính thường không xuất hiện cho đến khoảng 2-3 tuần sau khi bị chấn thương đầu và ở một số người, có thể là vài tháng sau khi chấn thương.
Trên thực tế, thông thường những chấn thương nhỏ hay bệnh nhân quên đã bị chấn thương đầu. Cụ thể hơn là bệnh này có thể xảy ra đối với người lớn tuổi khi sử dụng thuốc kháng đông, hay ở những người nghiện rượu.
Những triệu chứng thì có xu hướng tăng dần và thường gặp như: chán ăn, buồn nôn hoặc nôn mửa, rồi có thể bị nhức đầu và nặng dần lên.
3. Các tổn thương muộn khác
- Viêm màng não mủ: Vi khuẩn xâm nhập vào dịch não tủy làm cho lượng bạch cầu đa nhân trung tính tăng lên lên đến hàng trăm, hàng nghìn và dần về sau thì không đếm được trong mỗi mm3.
Các bạch cầu này sẽ thoái hóa và từ đó tế bào mủ xuất hiện. Trong một số trường hợp thì sẽ có chỉ định mổ nhằm bịt các lỗ rò ở sàn sọ nhưng thông thường thất bại với tỉ lệ khá cao. Cho nên, điều trị bằng kháng sinh khi mà lỗ rò chưa được bịt sẽ vô tác dụng và sàn sọ sẽ đầy mủ bao bọc thân não có thể gây tử vong.
- Lỗ rò động mạch cảnh – xoang hang: một biến chứng ít gặp nhưng dễ chẩn đoán. Ở trong điều trị phẫu thuật có thể có khi thành công mỹ mãn và dễ dàng.
Hay ngược lại cũng có một số trường hợp mổ nhiều lần nhưng cũng không thể bịt được lỗ rò do sàn sọ đã bị vỡ ở tầng giữa và nó liên quan đến đoạn động mạch cảnh trong chui qua xoang tĩnh mạch hang gây nên lỗ rò ở đó.
- Áp lực trong sọ: Trong chấn thương sọ não, các tổn thương thứ phát ví dụ như: phù não, dập não, máu tụ là thành phần lạ mới xuất hiện và nó chèn ép ba thành phần kia vốn chia nhau chiếm dung tích trong sọ trong lúc này thì khả năng tự điều chỉnh máu trong não sẽ không còn.
Hậu quả nghiêm trọng đó thể hiện bằng những triệu chứng gọi chung là hội chứng tăng áp lực sọ cấp tính. Và có hai loại triệu chứng thấy rõ: tri giác giảm dần và các dấu hiệu sinh tồn biến đổi.
Nếu bạn bị chấn thương ở vùng đầu, và sau đó cảm thấy khó chịu hay xuất hiện những thay đổi trong hành vi bản thân thì ngay lập tức hãy đến gặp bác sĩ. Nhẹ thì có thể ảnh hưởng tạm thời đến não, nếu ở mức trung bình hay nặng hơn thì vô cùng nguy hiểm vì vậy cần phải đặc biệt chú ý sau khi có bị chấn thương đầu.
Xem thêm:
- Trẻ bị chấn thương sọ não nguy hiểm thế nào? – Lưu ý dành cho bố mẹ
- Những việc cần làm khi bị chấn thương sọ não
- Những di chứng đáng sợ của chấn thương sọ não