Bệnh máu khó đông là một chứng rối loạn hiếm gặp, trong đó máu không đông lại bình thường vì nó thiếu đủ các protein đông máu (các yếu tố đông máu). Nếu bạn bị bệnh máu khó đông, bạn có thể chảy máu sau khi bị thương lâu hơn so với khi máu đông bình thường. Hãy cùng, Medplus tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé.
Ngoài ra, bạn có thể tham khảo các loại bệnh khác:
1. Bệnh máu khó đông như thế nào?
Bệnh máu khó đông là một chứng rối loạn hiếm gặp, trong đó máu không đông lại bình thường vì nó thiếu đủ các protein đông máu (các yếu tố đông máu). Nếu bạn bị bệnh máu khó đông, bạn có thể chảy máu sau khi bị thương lâu hơn so với khi máu đông bình thường.
Những vết cắt nhỏ thường không phải là vấn đề lớn. Nếu bạn bị thiếu hụt protein yếu tố đông máu nghiêm trọng, mối quan tâm sức khỏe lớn nhất là chảy máu sâu bên trong cơ thể, đặc biệt là ở đầu gối, mắt cá chân và khuỷu tay. Chảy máu bên trong có thể làm hỏng các cơ quan và mô, và có thể đe dọa tính mạng.
Bệnh máu khó đông là một rối loạn di truyền. Điều trị bao gồm thay thế thường xuyên yếu tố đông máu cụ thể đã bị hạ thấp.
2. Triệu chứng của bệnh máu khó đông
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh ưa chảy máu khác nhau tùy thuộc vào mức độ của các yếu tố đông máu. Nếu mức độ các yếu tố đông máu của bạn giảm nhẹ, bạn chỉ có thể bị chảy máu sau khi phẫu thuật hoặc chấn thương. Nếu tình trạng suy giảm nghiêm trọng, bạn có thể bị chảy máu tự phát.
Các dấu hiệu và triệu chứng của chảy máu tự phát như sau:
- Chảy máu quá nhiều và không rõ nguyên nhân do vết cắt hoặc vết thương, hoặc sau khi phẫu thuật hoặc làm răng
- Nhiều vết thâm lớn hoặc sâu
- Chảy máu bất thường sau khi tiêm chủng
- Đau khớp, sưng hoặc đau thắt
- Có máu trong nước tiểu hoặc phân
- Chảy máu cam không rõ nguyên nhân
- Ở trẻ sơ sinh, quấy khóc không rõ nguyên nhân
3. Nguyên nhân gây bệnh máu khó đông
Khi bạn bị chảy máu, cơ thể thường thu thập các tế bào máu để tạo thành cục máu đông để cầm máu. Quá trình đông máu được tạo ra bởi các phần tử máu nhất định. Bệnh máu khó đông xảy ra khi bạn thiếu một trong những yếu tố đông máu này.
Có một số dạng bệnh ưa chảy máu, và hầu hết các dạng đều được di truyền. Tuy nhiên, khoảng 30% người mắc bệnh máu khó đông không có tiền sử gia đình mắc chứng rối loạn này. Ở những người này, một sự thay đổi bất ngờ xảy ra ở một trong những gen liên quan đến bệnh máu khó đông.
Bệnh máu khó đông mắc phải là một dạng bệnh hiếm gặp xảy ra khi hệ thống miễn dịch của một người tấn công các yếu tố đông máu trong máu. Nó có thể được liên kết với:
- Thai kỳ
- Điều kiện tự miễn dịch
- Ung thư
- Đa xơ cứng
4. Bệnh máu khó đông di truyền
Trong các loại bệnh máu khó đông phổ biến nhất, gen khiếm khuyết nằm trên nhiễm sắc thể X. Tất cả mọi người đều có hai nhiễm sắc thể giới tính, mỗi người một nhiễm sắc thể từ cha và mẹ. Con gái thừa hưởng nhiễm sắc thể X từ mẹ và nhiễm sắc thể X từ cha. Một đứa trẻ thừa hưởng nhiễm sắc thể X từ mẹ và nhiễm sắc thể Y từ cha.
Điều này có nghĩa là bệnh máu khó đông hầu như luôn xảy ra ở trẻ em và được truyền từ mẹ sang con thông qua một trong các gen của người mẹ. Hầu hết phụ nữ có gen khiếm khuyết chỉ đơn giản là người mang mầm bệnh và không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh máu khó đông. Nhưng một số người mang mầm bệnh có thể có các triệu chứng chảy máu nếu các yếu tố đông máu của họ giảm vừa phải.
5. Các biến chứng
Dưới đây là một số biến chứng của bệnh máu khó đông:
- Chảy máu nội tạng sâu. Chảy máu sâu trong cơ có thể khiến cánh tay và chân (tứ chi) sưng tấy. Vết sưng có thể gây áp lực lên các dây thần kinh và gây tê hoặc đau.
- Tổn thương khớp Chảy máu bên trong cũng có thể gây áp lực lên các khớp và gây ra những cơn đau dữ dội. Chảy máu trong thường xuyên không được điều trị có thể dẫn đến viêm khớp hoặc phá hủy khớp.
- Sự nhiễm trùng. Những người mắc bệnh máu khó đông dễ được truyền máu hơn, điều này làm tăng nguy cơ nhận các sản phẩm máu bị ô nhiễm. Các sản phẩm máu hiện an toàn hơn sau khi máu hiến bắt đầu được xét nghiệm viêm gan và HIV vào giữa những năm 1980.
- Phản ứng có hại khi điều trị bằng các yếu tố đông máu. Ở một số người bị bệnh máu khó đông nặng, hệ thống miễn dịch có phản ứng tiêu cực với các yếu tố đông máu được sử dụng để điều trị chảy máu. Khi điều này xảy ra, hệ thống miễn dịch tạo ra các protein (được gọi là “chất ức chế”) tắt các yếu tố đông máu, làm cho việc điều trị kém hiệu quả.
Nguồn tham khảo: