Canh-ki-na có tác dụng dùng làm thuốc chữa thiếu máu, mệt mỏi toàn thân, dưỡng sức, chữa sốt, sốt rét vì nhiễm trùng, lao và đái đường. Vậy có những bài thuốc trị bệnh hiệu quả từ dược liệu canh-ki-na nào hiện nay? Cách dùng dược liệu này như thế nào? Hãy cùng Medplus tìm hiểu rõ hơn về loại dược liệu này nhé!
1. Thông tin dược liệu
Tên thường gọi: Canh ki na; Canh kina; Canhkina
Tên khoa học: Cinchona spp
Họ: Rubiaceae (Cà phê)
Đặc điểm dược liệu
Canh-ki-na là những cây nhỏ hay cây to có thể cao 15-20m.
Canh-ki-na có lá mọc đối, có cuống, với hai lá kèm thường sớm rụng. Phiến lá nguyên hình trứng, có gân lá hình lông chim. Trong một số loài như canhkina xám, ở góc gân chính và gân phụ có các túi nhỏ mang lông.
Hoa canh-ki-na mọc thành chùm xim tận cùng, hoa đều, mẫu 5, cánh hoa màu trắng hay hơi hồng, thường có mùi thơm dễ chịu. Đài có 5 răng, tràng hình ống, loe ở miệng, với 5 thuỳ, 5 nhị đính trên ống tràng. Trong nhiều loài có hoa với vòi nhị dài hoặc ngắn không đều. Bầu dưới, với hai ngăn mang nhiều noãn. Hạt nhiều, nhỏ, dẹt có dìa hơi có răng.
Bộ phận dùng
Vỏ thân, cành và cũng có thể dùng cả vỏ rễ của cây canh-ki-na
Thu hái và chế biến
Canh-ki-na trồng sau 3-4 năm đã có thể cho vỏ, nhưng tốt nhất là sau 7-10 năm thì thu hoạch vỏ tốt nhất. Bóc vỏ vào mùa thu hay đầu xuân. Hàm lượng hoạt chất trong cây tuỳ thuộc vào loài trồng và chất đất ở các độ cao khác nhau. Khi chặt cây, cành để bóc vỏ, cần chừa lại gốc để cây tạo ra thân cành mới.
Phân bố
Toàn bộ các loài canh-ki-na đều nguồn gốc Nam Mỹ. Cây canhkina mọc hoang dại trên sườn phía đông dãy núi chạy dọc dài 4.000km, rộng 75 đến 100km từ vĩ tuyến 10° bắc đến vĩ tuyến 22° nam thuộc các nước Côlômbia, Equatơ, Pêru, Bôlivia. Vùng có canh-ki-na mọc hoang có độ cao 1.500 đến 3.000m, nhiệt độ trung bình 15°, ít chênh lệch, mưa nhiều, độ ẩm cao.
Tại Việt Nam, canh-ki-na được trồng nhiều ở vùng đất đỏ trên cao nguyên Lang biang (Trung Bộ).
2. Công dụng và tác dụng chính
Thành phần hóa học
Vỏ Canh-ki-na giàu tanin catechic (3 tới 5%), khi oxy hoá sẽ thành phlobaphen màu đỏ của canh-ki-na. Còn có ít tinh dầu, acid hữu cơ (acid quinic) và một heterosid triterpenic (quinovosid). Trong vỏ có nhiều alcaloid có thể đạt tới 15% trọng lượng của vỏ.
Các alcaloid chính tạo thành 2 cặp đồng phân lập thể: một bên là quinin và quinidin, một bên là cinchonin va cinchonidin. Quinin và cinchonidin quay trái, còn quinidin và cinchonin quay phải. Quinin và quinidin sẽ biến đổi thành quinicin (hay quinotoxin). Các alcaloid chính này đều kèm theo những alcaloid có hàm lượng thấp. Trong vỏ của Canh-ki-na đỏ, có tỷ lệ alcaloid toàn phần là 3-8% và hàm lượng quinin trong đó chỉ chiếm ít hơn 50%; còn trong vỏ Canh-ki-na thon, tỷ lệ alcaloid toàn phần tới 15% và hàm lượng quinin trong đó lên tới 80-90%.
Tính vị
Vỏ Canhkina đỏ có mùi thơm nhẹ, vị đắng chát.
Vỏ Canhkina thon có mùi hơi thơm, vị chơi chát, rất đắng.
Quy kinh
Chưa có tài liệu nào nghiên cứu.
Tác dụng dược lý
- Vỏ canhkina là một loại thuốc bổ chát (do tanin) và đắng, tác dụng chữa sốt và sốt rét của vỏ canhkina là do các ancaloit chủ yếu là quinin.
- Quinin là một chất độc đối với tế bào, tác dụng lên đơn bào: amip, ký sinh trùng sốt rét…. Truớc đây tác dụng chữa sốt rét của canhkina chỉ là dựa theo kinh nghiệm nhân dân. Mãi đến năm 1880, sau khi Laveran phát hiện độc tính của quinin đối với trùng sốt rét Plasmodium falciparum người ta mới hiểu cơ chế chữa sốt rét của quinin. Quinin tác dụng chủ yếu lên các dạng vô tính (schizonte) và dạng non, ít tác dụng đối với các gamet. Vì vậy cần uống phòng quinin vào giữa hai cơn sốt rét.
- Quinin còn có tác dụng ức chết đối với những trung tân sinh nhiệt của những người sốt do đó quinin được dùng làm thuốc giảm sốt, nhưng đối với người bình thường thì quinin ở liều điều trị không có tác dụng làm hạ nhiệt.
- Ngoài tác dụng hạ sốt, chữa sốt rét, quinin còn có tác dụng chống nhiễm trùng, và chữa cúm, và hơi có tác dụng an thần.
- Người ta dùng quinin dưới dạng uống, tiêm bắp hay tiêm mạch máu. Quinin hay gây cứng và loét nơi tiêm, kích ứng mặt trong mạch máu. Quinin loại trừ qua đường tiểu tiện.
- Với liều cao, quinin là giảm thần kinh trung ương do đó có thể gây những hiện tượng như ù tai, chóng mặt, hoa mắt. Nó làm chậm nhịp tim, kích thích cơ trơn, quinin còn là mộc thứ thuốc dục đẻ, nhưng chỉ có tác dụng làm ra thai với liều cao.
- Những ancaloit khác của canhkina cũng có tác dụng chữa sốt, sốt rét nhưng kém hơn, và có tác dụng hợp đồng. Quinidin có tác dụng kích thích cơ tim, dùng chống rung tim và điều hoà nhịp tim.
Cách dùng và liều lượng
Canh-ki-na thường được dùng dưới dạng thuốc bột, thuốc sắc hay rượu thuốc và nước uống, tùy vào từng công dụng chữa bệnh mà sẽ có cách dùng và liều lượng dùng khác nhau.
3. Bài thuốc chữa bệnh
Chữa mưng mủ hoại tử, vết thương không trương lực
Liều dùng 5-10g dạng bột, viên hoặc rượu thuốc, dùng ngoài. Bột Canhkina dùng rắc các vết thương, vết loét.
Chữa sốt, sốt rét
Liều 1-2g một ngày chia làm nhiều lần uống, mỗi lần 0,5g, tổng liều là 10-15g.
Điều trị một số trường hợp loạn nhịp tim
Liều dùng mỗi lần 200-250mg dạng sulfat, mỗi ngày có thể dùng tới 1,0-1,5g.
4. Những điều cần lưu ý khi dùng dược liệu
Trong quá trình điều trị bệnh bằng cây canh-ki-na cần lưu ý: Không tự ý dùng dược liệu khi chưa có sự hướng dẫn, đồng ý từ y bác sĩ, dùng liều cao có thể gây ù tai, chóng mặt.
5. Lời kết
Hy vọng với những thông tin trên, MedPlus sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về Dược Liệu cũng như một số bài thuốc hay về vị thuốc này nhé!
Lưu ý:
- Thông tin về dược liệu mang tính chất tham khảo
- Quý độc giả không nên tự ý sử dụng phối bài thuốc mà sử dụng
- Quý độc giả nên tham vấn ý kiến thầy thuốc trước khi sử dụng, để hạn chế tác dụng phụ và tác dụng không mong muốn
Nguồn: tracuuduoclieu.vn
Xem thêm bài viết: