Cây Sau Sau thuộc loại cây bản địa của vùng Trung, Nam – Trung Quốc và Đông Bắc Việt Nam, Lào. Cây thường được dùng để chữa các bệnh phổ biến như: Ho, hen suyễn, tiêu đờm, kinh nguyệt không đều, thiếu sữa, và đặc biệt là trị đau răng, phong thấp rất hiệu quả. Hãy cùng Medplus khám phá những thông tin sâu hơn về loại dược liệu này nhé!
A. Thông tin về Cây Sau Sau
Tên gọi khác: Sau trắng, Thau, Phong hương, Mạy xâu (Tày), Meng đen (Dao), Che phai (Mường), Bạch giao hương
Tên khoa học: Liquidambar formosana Hance
Họ: Altingiaceae
1. Đặc điểm về cây
- Cây kích thước to, cao tầm 20 m, có những cây có thể cao hơn. Thân to, mọc đứng, cành non có lông râm, sau nhẵn.
- Lá mọc so le với nhau, đài 13cm. rộng 19 cm, chia 3 thùy nông hình chân vịt, gốc tròn hoặc hơi hình tim, đầu thuôn nhọn, mép khía răng đều, lá non màu hồng phủ nhiều lông hình sao, cuống lá dài 5 – 8 cm, lá kèm hình dài sớm rụng, lá rụng vào mùa đông và mọc lại sau khi cây ra hoa.
- Quả kép hình cầu, do nhiều quả nang họp lại, đường kính 2 – 3 cm, mang lá dài và lá bắc khô xác, cuống dài 3 – 9 cm, hạt hình bầu dục, có cánh.
- Mùa hoa quả: Tháng 5 – 7.
2. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây sau sau thuộc loại cây bản địa của vùng Trung, Nam – Trung Quốc và Đông Bắc Việt Nam, Lào.
Ở Việt Nam, cây sau sau tập trung nhiều ở vùng núi thấp và trung du, thuộc tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Tây và Hòa Bình, thường không thấy xuất hiện ở các tỉnh phía nam.
Cây sau sau thuộc loại cây gỗ tiên phong trên đất sau nương rẫy hoặc bị cháy rừng. Khi còn nhỏ, cây hơi chụi bóng, sau đặc biệt ưa sáng. Thường mọc ở ven rừng, rừng thứ sinh, đổi và quanh bờ mương rẫy. Độ cao phân bố thường dưới 400 m, rụng lá mùa đông.
Với khả năng thích nghi cao, sống được trên mọi loại đất, cây sau sau có khả năng chịu hạn tốt nên sinh trưởng và phát triển được trên những loại đất khô cằn trơ sỏi đá. Cây mọc từ hạt sau 7 – 10 năm bắt đầu có hoa: tái sinh cây chồi sau khu chặt.
Phần lõi gỗ của cây cứng cáp nên thường được sử dụng để làm cột nhà hoặc đóng đồ dùng. Chất nhựa tiết ra từ vỏ thân có mùi thơm, được dùng làm thuốc và chế tạo nước hoa. Với đặc điểm là cây mọc nhanh và ưa sáng, cây sau sau được trồng làm cây tạo bóng trước khi trồng lim. Sau 10 – 15 năm, khi cây lim vượt tán, cây sau sau dần dần bị đào thải.
3. Bộ phận dùng
Quả (lộ lộ thông), lá (phong hương diệp), rễ (phong hương căn), nhựa (phong hương chi).
Lá, rễ và nhựa thu hái quanh năm.
4. Thành phần hóa học
Lá sau sau chứa nhiều tanin. Các tanin thay đổi theo mùa như telimagrandin II là thành phần chủ yếu vào đầu mùa xuân, trong khi đó casuarinin và pedunuculagin là tanin chính vào mùa thu.
5. Tác dụng dược lý
Trong thử nghiệm in vitro, sau sau có hoạt tính ức chế các chủng vi khuẩn như: tụ cầu vàng, Bucullus anthrucis, Klebsiclla pneumoniae, trực khuẩn mủ xanh, Escherichia coli và Streptococcus faccalus.
Thành phần acid beturonic trong quả sau sau được chứng minh có hoạt tính bảo vệ rõ rệt chống lại tác dụng độc hại gây bởi chất hóa học trên tế bào gan nuôi cấy của chuột cống trắng.
Digaloylhamanclose chiết từ nhánh cây sau sau được chứng minh có tác dụng ức chế sự kết dính và xâm nhập của tế bào carcinom LL2 – LL3 phổi chuột nhắt trắng, những tế bào này có khả năng di căn cao.
6. Tính vị và công năng
Quả cây sau sau có vị đắng, tính bình, mùi thơm, có tác dụng khử phong, hoạt lạc, lợi thủy, thông kinh.
Lá có vị đắng, tính bình, có tác dụng thông khiếu, khai uất, khử đàm, và cũng có tác dụng hoạt huyết giảm đau, chỉ huyết sinh cơ, rễ có vị đắng, tính ấm, cá tác dụng khử thấp, chỉ thống.
B. Công dụng và liều dùng
Quả, lá và rễ với liều dùng hằng ngày như sau: quả và rễ 3 – 10g, lá 15 – 30g, dạng thuốc sắc chữa các bệnh:
- Quả được dùng chữa phong thấp, đau nhức khớp xương, tâm vị trướng đau, thủy thũng, đái khó, kinh nguyệt không đều, thiếu sữa, mày đay, viêm da, chàm.
- Lá chữa viêm ruột, lỵ, đau vùng thượng vi, thổ huyết, chảy máu cam, dùng ngoài trị mẩn ngứa, eczema.
- Rễ chữa thấp khớp và đau răng.
Nhựa được dùng với liều 1,5 – 3g, giã thành bột và chiêu với nước:
- Trị ho có đờm, kinh giản, thổ huyết, nôn ra máu, khạc ra náu, chảy máu cam.
Trong y học cổ truyền và dân gian Trung Quốc, cây sau sau được dùng:
- Làm thuốc giảm đau và sát trùng.
- Uống trị viêm ruột và lỵ, trực khuẩn, phối hợp với các vị khác làm thuốc long đờm trong điều trị lao.
- Bôi ngoài làm thuốc sát trùng trị bệnh mủ da. ghẻ và bệnh nấm tóc
- Cách dùng : Dùng vỏ cây sau sau uống dưới dạng thuốc sắc hoặc bột. Liều mỗi lần 0,5 – 2g. hoặc dùng ngoài thuốc bôi dẻo từ nhựa cây 10 – 50%.
Quả sau sau được dùng ở Đài Loan làm thuốc bảo vệ gan.
Ở Ấn Độ, nhựa thơm sau sau được dùng làm thuốc long đờm và sát trùng, và làm thuốc bớt dẻo trị ghẻ và những bệnh ký sinh trùng ngoài da khác. Hiện nay, ít được dùng trong y học.
Ngoài ra, bạn cũng có thể tham khảo thêm một số bài viết về các dược liệu khác có cùng công dụng chữa phong thấp như:
C. Các bài thuốc từ Cây Sau Sau
- Chữa đau răng, sâu răng: Nhựa sau sau đốt cháy, tán nhỏ đem xỉa răng.
- Chữa lở ngứa, mày đay, nổi mẩn: Lá hay vỏ cây sau sau nấu nước, tắm rửa.
- Chữa thấp khớp, lưng gối đau, tay chân co quắp, toàn thân tê đau: Quả sau sau, hoa thông hoặc lõi thông (tùng tiết), mỗi vị 20g, sắc uống. Phụ nữ có thai không được dùng.
- Chữa mụn nhọt, sưng lở, bi thương, đau nhức hay chảy máu, phong thấp sưng đau: Nhựa sau sau. nhựa thông. Mỗi vị 40g, sáp ong, dầu vừng, mỗi vị 10g. Đun và đánh đều cho loãng ra, để nguội phết lên giấy, dán vào chỗ đau.
Lời kết
Hy vọng với những thông tin trên, MedPlus sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về Cây Sau Sau cũng như một số công dụng hay về loại dược liệu này!
Lưu ý:
- Thông tin dược liệu mang tính chất tham khảo
- Người bệnh không tự ý áp dụng
- Người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng
Nguồn tham khảo
Tracuuduoclieu.vn và các nguồn uy tín khác.